Sunday, September 28, 2008

chlamor - Welcome To The Homeland

Welcome to Germany
Welcome to the Hyper-White Techno-Evangelical Inquisition.

80 billion additional dollars to the War for Lockheed-Halliburton
now up to a quarter of a trillion for the war for the Brown&Root- for the Dyncorp
in addition to the regular 800 million or so a minute for the
Narcotics Trafficking- CIA- Military- Industrial- World's Greatest Polluter- Criminal Think Tank Complex

Small scale tactical nuclear weapons cocktails
served up to brown skinned children
with distended bellies
by well-manicured barbarians in Citadels and Mansions
by their servants in boardrooms
with distended bellies

With 725 military bases
With 350 outposts
In 132 countries
In Every jungle
In Every tree
All baby-faced tamarinds run for cover, hiding in their mother's breasts

America- A fundamentally sick society
America- A culture of conquest

Get out of Iraq Get out of Viet Nam
America get out of Colombia
America get off the Rez
America get out of Afghanistan
America get out of etcetera

America, a fundamentally sick society.

Welcome to Plastic Racist Nation
Welcome to McAmeriWal-Martika
Germany- The Fatherland
America- The Homeland
Welcome to Soft Fascism

General Reinhard Gehlen head of German military intelligence on the Eastern front and his network of spies and terrorists were brought over to the USA after World War 2 in the now well known Operation Paperclip. From these advisers and functionaries Allen Dulles, copying many of the methods utilized by the likes of Herr Gehlen, shaped what we now know to be the CIA.

Instruments of Statecraft
Counterinsurgency Literature

Strangle Them- Starve Them
Hold an election
Call it Democracy

I pledge allegiance to the United Sports Utility Vehicle
of Der Father- der Home Land of the Fee
Home Land of Wage Slavery
Land of the Tidy White Bestiality
This Land of Pre-Ordained Brutality
This Land of Hyper-Tense Entreprenurial Mentality

Overthrow Castro
Overthrow Arbenz
Overthrow Mossadegh
Overthrow Chavez
Overthrow National Sovereignty
Overthrow Dignity

It is time to stop living
The Lie that is America- I Secede

Friday, September 26, 2008

Thường Trung - Trao Đổi Toàn Văn Phát Biểu của TGM Ngô Quang Kiệt

Loại người có tâm lý thấy tiền sáng mắt, thấy sang bắt quàng làm họ thì mới so sánh giá trị con người bằng cách xem ai có nhiều tiền hơn. Loại người này nếu thấy người ta nghèo hơn mình thì khi dễ, thấy người giàu có hơn mình thì sáng mắt lên và tự cảm thấy mình nhỏ bé nhục nhã. Cái loại chỉ biết đánh giá con người dựa vào túi tiền này thì chỉ là động vật cấp thấp.

Có loại người khác thì coi tiền bạc là phương tiện trong cuộc sống như bao nhiêu phương tiện khác, chứ không phải là thứ để thờ, thì không bao giờ họ cảm thấy nhục nhã vì họ nghèo hơn người khác cả. Tiền họ làm ra tuy ít nhưng nếu không phải là cướp giựt hay ăn cắp thì tại sao phải cảm thấy nhục nhã vì nghèo hơn người ta?

Chưa kể đến trường hợp Việt Nam bị cái đám hám lợi mất gốc thờ tây như trên kia dẫn giặc vào nhà tiếp tay với giặc phá hoại hút máu người nhà trong 100 năm, nên mới bị thụt lùi so với ngừ ta. Những người này làm như vậy đã không biết nhục mà còn thường xuyên bù lu bù loa chửi ngược nữa!

Tôi nghĩ tất cả mọi người đều có thể đồng ý rằng hộ chiếu Việt Nam không thể làm nhục được một người Việt Nam, chỉ có người Việt Nam nào đó làm chuyện bậy bạ, hay như ông Kiệt, gặp nhà giàu nước ngoài thì rúm người lại mới có thể làm nhục lây cái hộ chiếu đó thôi.

Một hành động khác của ông Kiệt cũng làm nhục cái hộ chiếu đó là khi ông nhất quyết ăn thua đủ với chính quyền Hà Nội trong cuộc làm loạn "đòi" đất ở "Tòa Khâm" ai nói ngọt nói nhạt gì cũng không thèm nghe, nhưng khi một ông cha của ông Kiệt ở tít Vatican truyền một chiếu chỉ với vài câu ngắn gọn là ông ta lập tức thu dọn xà beng, cuốc thuổng, lều chõng ra khỏi chỗ đó. Sao mấy thằng tây đó nó không đẻ ra ông mà nó có phước thế? Nó chỉ hứa cho ông một cái bánh vẽ trên trời mà ông đã bán mạng cho nó rồi!

Trình độ khôn nhà dại chợ, trí óc thuộc hàng cừu của ông Kiệt và các con cừu của ông ta là một sự sỉ nhục cho cái hộ chiếu Việt Nam đó.

----------------------------------------------------------

Nguồn Sen Việt: Trong bài viết “Vụ Tòa Khâm: đối thoại bất thành” trên BBC, chúng tôi nhận thấy BBC đã cố tính lấp liếm sự thật và hoán chuyển ngữ cảnh lời phát biểu của ông Ngô Quang Kiệt. Bởi thực chất sau khi nói câu: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”, ông ta mới chữa cháy bằng cách nói mong rất đất nước chúng ta mạnh, đi đâu cũng được kính trọng.
Sau đây Sen Việt xin dẫn lại nguyên văn lời phát biểu đã được ghi lại bằng văn bản của ông Ngô Quang Kiệt và tin bài của BBC đăng tải để quý độc giả tiện theo dõi và nhận xét xem BBC và Ngô Quang Kiệt là ai, trong chiến dịch đòi đất gây mất ổn định chính trị xã hội tại Thủ đô Hà Nội…

Linh BBC thanh minh cho ông Kiệt

Sau đây là nguyên văn phát biểu của ông Ngô Quang Kiệt trong buổi làm việc với UBND TP. Hà Nội sáng ngày 20-9-2008, tức là sau một ngày mà ông Ngô Quang Kiệt cho công bố “Đơn khiếu nại khẩn cấp”, được chúng tôi ghi lại và lần lượt trao đổi như sau.
Muốn hiểu bản chất vụ việc cầu nguyện này phải xem những lời nói và hành động của ông Ngô Quang Kiệt bằng không sẽ thiếu khách quan. Vụ cầu nguyện diễn ra vào cuối năm 2007 với danh xưng “công lý và hòa bình” do đích thân ông Ngô Quang Kiệt khởi xướng và tham dự tích cực; trả lời những bài phỏng vấn xuyên tạc chế độ, pháp luật của nhà nước trên một số trang thông tin nước ngoài; đưa ra câu nói: “Nếu ai cầu nguyện mà phải ngồi tù, tôi sẽ ngồi tù thay”; đi “công du” nước ngoài kêu gọi các giám mục nước ngoài hiệp thông đòi đất; khi về Việt Nam đến thăm những người cầu nguyện phá phách bị bắt giam khởi tố, cổ vũ cho những giáo dân đang quá khích; viết “Đơn khiếu nại khẩn cấp” với nội dung xuyên tạc và đe dọa chính quyền… 
Tất cả những điều kể trên được đúc kết bằng bài phát biểu trước báo giới và UBND TP. Hà Nội. Và cũng chỉ có so sánh như vậy thì mới có thể hiểu được bụng dạ nói một đằng làm một nẻo của người có danh vị Tổng Giám mục này. 

-NQK: “Tôi hết sức là cám ơn ông Chủ tịch UBND TP. Hà Nội cũng như tất cả các ban, ngành trong TP. Hà Nội đã dành cho tôi một buổi tiếp xúc vừa trân trọng, vừa cởi mở và chân tình. Những cái lời ông Chủ tịch nói kết thúc thật là đẹp. Và tất cả chúng ta ai cũng mong muốn làm sao có sự hài hòa trong một cái khối đoàn kết thống nhất. Tuy nhiên muốn có được hài hòa trong cái khối thống nhất thì đâu phải chỉ có cái tình mà nó còn phải có cái lý nữa. 
Tục ngữ Pháp có nói những cái tính toán nó đúng mực thì nó mới làm những người bạn tốt được. Muốn bạn tốt với nhau thì cũng phải tình lý phân minh chứ không phải chỉ có tình mà thôi. Chính vì thế tôi cũng xin có vài lời cuối cùng trước cái lời kết thúc của ông Chủ tịch. Trước hết, ông Chủ tịch có nói UBND Thành phố đã tạo rất nhiều điều kiện cho Giáo hội Công giáo trong những năm qua, đặc biệt qua dịp tổ chức Noel vân vân. Chúng ta phải công nhận những năm gần đây có nhiều điều kiện. 
Tuy nhiên khi nói như thế, khi nói là tạo điều kiện, chúng ta còn mang nặng cái tâm lý xin cho, tức là cái này là ân huệ tôi ban cho anh đó. Nhưng mà cái tôn giáo là cái quyền tất nhiên con người được hưởng, và nhà nước vì dân do dân thì phải có trách nhiệm tạo điều kiện đó cho người dân, chứ không phải cái chúng tôi ân huệ, chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là ân huệ xin cho. Đó là cái thứ nhất. 
Cái thứ hai, ông Chủ tịch có nói mọi cư xử phải vừa trên pháp luật và thứ hai vừa trên tình người và công dân. Cái điều đó tôi rất đồng ý, rất là tâm đắc. Thế tuy nhiên trong cái thực hiện chúng ta phải làm như thế. Về phương diện pháp luật chúng ta phải làm theo pháp luật. Thế thì cái gì cũng phải có cơ sở pháp lý. 

-Thường Trung: Ông Ngô Quang Kiệt cám ơn nhà nước những năm gần đây tạo rất nhiều điều kiện cho Công giáo, nhưng đó không phải ân (ơn) huệ gì, xin - cho gì. Vậy thì ông ta việc gì phải “cảm ơn” cho tốn lời và bị người ta cho là giả tạo, bởi muốn cám ơn ai cho thật bụng thì chí ít phải biết người đó có ơn gì với mình chứ.

Sống trong một quốc gia, được bình an, được hưởng lợi từ biết bao chính sách của nhà nước mà bảo không ân huệ gì. Vậy thì thưa ông Ngô Quang Kiệt, ông nghĩ sao khi những sinh viên bình thường với chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh luôn hát vang bài ca “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay”? Dân tộc này không chấp nhận cho bất cứ ai vô ơn, không vun đắp và quay lưng lại với nó. Chỉ cần ông sống trên mảnh đất Việt Nam này một ngày thôi thì ông cũng phải ghi nhớ câu này “một đêm nằm bằng một năm ở”.

Ông có thể không có "ơn huệ", "xin-cho" gì với nhà nước Việt Nam (mà người Cộng sản lãnh đạo), nhưng nói thế cũng thật khó chấp nhận, bởi mỗi mảnh đất Việt Nam đều in dấu tâm huyết, máu xương nhiều đời của các tôn giáo, tín ngưỡng, thể chế khác nhau vun đắp xây dựng nên, để nay có một cái tên chung thống nhất đó là Việt Nam. Có một mảnh đất hình chữ S thiêng liêng để người ta hiểu đó là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. 
Thưa ông Ngô Quang Kiệt, trong cái khối “hài hòa, thống nhất” đó, ông đang nắm cái lý hay ông đang nắm cái tình?

Theo giọng nói của ông thì cái tình đang bị ông “phê phán” rồi. Có nghĩa rằng người ta vận động, khuyên bảo, rồi tạo điều kiện lựa chọn đất nơi khác, nhưng ông không cần “cái tình” ấy, tức là chỉ đi “đòi” thôi chứ không “xin”. Vậy ông đang nắm “cái lý” chăng? Nhưng ai cũng thừa hiểu cái “lý” của ông là những mảnh giấy tờ của chính quyền thực dân cấp và nó đã hết hiệu lực khi chính thể cầm quyền thay đổi.

Ông nói “Về phương diện pháp luật, chúng ta phải làm theo pháp luật”. Thưa ông Ngô Quang Kiệt không biết ông đang kêu gọi làm theo pháp luật nào? Bởi nhà nước nói rằng “Tòa khâm” được linh mục Nguyễn Tùng Cương bàn giao cho nhà nước quản lý trong chính sách cải tại xã hội, nay không có cơ sở pháp luật nào để giải quyết. Luật đất đai năm 2003 cũng quy định rõ không giải quyết khiếu nại về đất đai do quá trình thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc kể từ năm 1991 trở về trước. Vậy chính quyền quận có thể xé luật để làm theo yêu cầu của ông không? Ông gây sức ép lên chính quyền bằng hành vi cầu nguyện bất chấp những quy định rất rõ ràng của pháp luật và pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo, như vậy đó là làm theo luật gì vậy?

Cũng xin thưa thêm với ông, quyền được theo tôn giáo và không theo tôn giáo đã được quy định rõ trong pháp luật, không ai cấm cả. Nhưng không có nghĩa là có cái quyền ấy thì có thể ngang nhiên rời tượng, cắm mốc thánh giá, tung tin Đức Mẹ hiển linh, dùng hành vi phá phách để chiếm đất của người khác. Ông có thấy ở nước nào trên thế giới này có cái quyền “tự do tôn giáo” như vậy không? Ông có thấy nước nào cho phép làm ầm làm ĩ lên bằng các loa công suất lớn kích động như vậy không? Ông có thấy nước nào nhượng bộ gần cả năm trời để cho những hành vi như vậy càng ngày càng quá khích không? Ông cứ hỏi nước Mỹ xem dân chúng có chịu đựng cái cảnh tắc nghẽn đường phố, ồn ào suốt năm như vậy mà không lên tiếng khởi kiện không? Vậy phải chăng cái quyền mà ông đưa ra là quyền được hưởng thụ đất đai mà nhà nước phải làm một cách vô điều kiện và vô ân huệ? Khoan nói đến chuyện trên thực tế nhà thờ rất hay ép người khác cải đạo bằng hôn nhân, vi phạm quyền được theo và không theo tôn giáo, chỉ cần nói đến chuyện xâm chiếm đất đai của người khác thôi thì lịch sử Giáo hội Việt Nam có biết bao nhiêu chuyện để đáng phải nói rồi.

Hồ Chủ tịch khi còn là một thanh niên trẻ, chứng kiến tình hình thực tế tại Việt Nam, vào tháng 7 năm 1924, tại Đại hội V Cộng sản Quốc tế, đã từng lên tiếng cảnh cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột và vai trò của Giáo hội Công giáo trong chuyện này: “Chỉ một mình Nhà Chung Công Giáo mà chiếm hết một phần tư đất trồng trọt ở Nam Kỳ. Phương thế chiếm hữu các đất đai đó rất là đơn giản: Dùng tham nhũng, hối lộ và cưỡng ép. Đây là một vài ví dụ rõ ràng. Nhà Chung lợi dụng khi mất mùa để cho nông dân vay tiền. Tiền lời cho vay rất nặng, nên con nợ sẽ không thanh toán nổi khi tới ngày trả, và như thế là đất cầm trở thành đất Nhà Chung. Giáo Hội không từ một việc nào để nắm những giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ đó dọa dẫm các quan chức, bắt họ phải làm theo ý mình muốn. Giáo Hội cũng liên minh với những tay tài phiệt để khai thác các vùng đất nhượng cho không và những thửa ruộng cướp được của nông dân. Giáo Hội có người của mình nắm giữ những vai trò thế giá trong chính quyền thuộc địa…”.

Và không kể Phật giáo bị chiếm phá, cưỡng ép bàn giao rất nhiều chùa chiền để xây nhà thờ mà lịch sử vẫn còn nguyên vẹn chỉ ra, chỉ cần nói ngay đến mảnh đất “Tòa Khâm sứ” và khu vực nhà thờ Lớn thôi thì đủ biết đó là mảnh đất đó được Giám mục Puginier và giáo gian Nguyễn Hữu Độ cấu kết chiếm phá như thế nào rồi. Chúng tôi không phải kể lại nữa (Sen Việt đã viết quá nhiều), bởi vì một mảnh đất đi chiếm phá của người khác bằng quyền lực thực dân thì vĩnh viễn không thể xứng danh sở hữu chủ và tính pháp lý. Vậy thì cái lý mà ông nói có phải chính là cái lý của kẻ cướp không? Đối với những mảnh đất tranh chấp mà ông Ngô Quang Kiệt đưa ra chúng ta có thể đặt câu hỏi: Ai bán cho giáo dân, ai ban phát cho giáo dân, và ai cướp đất cho giáo dân?, là nhất định sẽ có ngay sự trả lời cho cái gọi là “pháp lý” mà ông Ngô Quang Kiệt đang cố tình rêu rao ấy. 

-NQK: "Ông Chủ tịch có nói rằng đất đai từ ngàn xưa, không biết nguồn gốc từ đâu. Nhưng mà đến đời Công giáo được trao, được cấp cái đó thì chúng tôi công nhận cái đó. Thế nhưng ít ra khi cấp như thế người ta có một mảnh giấy công nhận là đây là được cấp. Và đến đời chính quyền sau có thể được thay đổi nhưng phải có giấy tờ để chứng minh cái sự thay đổi đó còn nếu không ai cũng vào thay đổi được thì sao. Thế thì trân cái mảnh đất thứ hai chúng tôi chưa có một văn bản nào của nhà nước nói về cái sự thay đổi đó. Đó. Không có đi vào cái diện cải tạo tư sản. Không có đi vào cái diện cải tạo nông nghiệp, cũng không có một văn bản nói lên cái sự tịch thu hay trưng thu trao cho cái cơ quan nào đó, hoàn toàn không có. Thành ra có thể nói việc quản lý của cơ quan nào đó là chưa có hợp pháp. 
Trên căn bản chúng ta phải có giấy tờ. Chứ bây giờ có một kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi cứ ngang nhiên ở đó, rồi không có giấy tờ gì hết mà họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được, thì đương nhiên họ chiếm hay sao?".
- Thường Trung: Ông Ngô Quang Kiệt đã tự tố cáo bằng chính phát biểu của mình: "Chứ bây giờ có một kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi cứ ngang nhiên ở đó, rồi không có giấy tờ gì hết mà họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được, thì đương nhiên họ chiếm hay sao?"

Đây chính là những gì mà Giám mục Puginier đã sử dụng để chiếm chùa Báo Thiên. Và không hiểu sao cái mớ giấy tờ được họ hợp thức hóa sau đó đến nay vẫn còn giá trị nhỉ? Phá một ngôi chùa để xây nhà thờ trên đó chắc là có tính pháp lý nhiều hơn là nhà nước tịch thu để giao cho các cơ quan khác khai thác sử dụng chăng?

Lúc chiếm chùa Báo Thiên, Giám mục Puginier cho giáo dân đến kiểm định ngôi chùa và sau đó phá sập, xây lên đó là thờ có xin phép ai đâu ngoài cái tên giáo gian Nguyễn Hữu Độ. Không hiểu sao một ngôi nhà thờ được mọc lên do chiếm phá thì là cái ý Chúa và cái ơn mưa móc của chính quyền thực dân ban cho. Thậm chí chưa kịp ban cho thì đã xúm nhau thúc giục rồi. Có lẽ do ngôi chùa đó tọa lạc tại trung tâm và vì bởi mục tiêu triệt phá chùa chiền trong chính sách thuộc địa của các giáo sĩ là luôn nhất quán. Đến nỗi ở vụ cưỡng chiếm chùa Báo Thiên, Giám mục Puginier phải thúc giục công sứ Bonal nhiều lần, nhưng vị công sứ này phải tỏ ra ái ngại vì sự lạm quyền trơ trẽn kiểu ấy nên mới khuyên Puginier đến Nguyễn Hữu Độ để hắn ban ơn, ra tay hợp thức hóa cho bằng một mảnh khoán.

Và người Công giáo đòi đất bây giờ không cần biết nguồn gốc của mảnh đất đó như thế nào, chỉ công nhận những gì được cấp thôi. Đây là "công lý và hòa bình" hay sao? Đây là mong muốn đoàn kết và hòa hợp hay sao? Mình đi chiếm đất để xây nhà thờ phục vụ cho mình thì thản nhiên, còn nhà nước trưng thu thì có vấn đề, và vì quên không đưa cho mảnh giấy trưng thu, chỉ có giấy bàn giao nhà thôi nên không đủ pháp lý, không hợp pháp.

Vốn dĩ nhà thờ đi chiếm đất có thủ đoạn và hệ thống rất rõ nên bao giờ họ cũng ra sức thủ tiêu bằng chứng cũ và nhờ quyền lực thực dân để hợp thức hóa giấy tờ, để biến sự ăn cướp thành pháp lý. Quả là tuyệt chiêu của thực dân và nhà thờ. 

-NQK: "Phải có giấy tờ, có văn bản pháp lý. Thế thì về vấn đề pháp luật, thì có thể cái bước thứ hai chúng tôi chưa hài lòng với câu trả lời của ông, thì chúng ta sống theo pháp luật thì chúng ta phải có văn bản giấy tờ của chính quyền. Chính quyền này có thể thay đổi, chính quyền sau có thể thay đổi nhưng phải có văn bản rõ ràng, thì chúng tôi thấy cái đất 42 chưa có cái văn bản đó". 

-Thường Trung: Ông đòi hỏi làm gì cũng phải có văn bản giấy tờ để ngụy biện rằng nhà nước có thể thay đổi nhưng giấy tờ cũng phải có.

Vậy xin thưa ông, Công ty may Chiến Thắng, Nhà Văn hóa quận có giấy tờ nhà nước cấp quyền sử dụng ngay từ khi có chính sách cải tạo nhà cửa, và họ đã khai thác mảnh đất đó 50 năm nay. Chủ quyền nhà nước giao cho họ chắc chắn là hợp pháp rồi phải không. Vậy tại sao giấy tờ của họ do nhà nước cấp thì không có giá trị pháp lý, còn giấy tờ của chính quyền thực dân ký thì có giá trị pháp lý? Nếu Công ty may Chiến Thắng hay Nhà văn hóa họ cũng nói họ không cần biết nguồn gốc đất đó từ đâu, của nhà thờ hay của ai (cũng như các ông bảo không cần biết nguồn gốc mảnh đất trước đó vốn là chùa Báo Thiên), chỉ biết họ được nhà nước hiện nay công nhận thì họ biết cái đó thôi thì sao? Vậy thì có cái cớ gì khi chưa đối thoại đàng hoàng với nhà nước, ông lại xách động giáo dân đến đập phá tài sản của họ.

Nhẽ ra thì các ông phải kéo đến đập phá Phủ Thủ tướng hay Tòa nhà Quốc hội, chứ tại sao lại kéo đến đập phá tài sản của một Tổ chức tương đồng với các ông về mặt chủ thể và chịu sự quy định chung của pháp luật nhà nước Việt Nam.

Khi tương đồng về chủ thể, giáo xứ có làm ăn, buôn bán hay không, hay chỉ quyên tiền tín đồ, hay chuẩn bị bán đất, sang nhượng… cũng không phải quan tâm của họ. Vậy thì khi họ được nhà nước trao quyền sử dụng, họ có làm ăn buôn bán tạo ra lời lãi để chi trả cho công nhân cũng là những mục đích của họ. Tại sao lại xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của họ? Phục vụ giáo dân không thôi thì là “công ích” còn phục vụ đời sống thu nhập của công nhân của họ thì không phải là “công ích” hay sao?

Cả hai chủ thể Công ty và Nhà thờ đều là những chủ thể phải chịu sự quy định của pháp luật. Vậy thì đều có quyền lợi và cả nghĩa vụ trước pháp luật, chứ không phải chỉ có “quyền” thôi đâu thưa ông Ngô Quang Kiệt. 

-NQK: "Cái vấn đề thứ hai, ông chủ tịch nói ngoài cư xử pháp lý chúng ta phải có cái tình người, nguyện vọng của người dân thì chúng tôi thấy cũng chưa được. Biết bao nhiêu nguyện vọng của chúng tôi nêu lên, ít nhất qua 15 lá đơn của Tòa Tổng Giám mục Hà Nội và Hội đồng Giám mục bao nhiêu lần nữa. Cái nguyện vọng của chúng tôi với cái đất đó là nó gắn bó với chúng tôi, nó gần gũi với chúng tôi. Nguyện vọng thật là chính đáng nhưng không bao giờ được giải quyết. 
Cho nên có thể nói đó, chúng tôi thấy cái lý thuyết, nguyên tắc ông Chủ tịch đưa rất hay nhưng chưa thực hiện được cái nguyện vọng cũng như cái pháp lý. Và điểm cuối cùng ông Chủ tịch có nói rằng nhà nước quản lý tất cả, nhà nước không có tranh chấp với ai hết. Chúng tôi rất đồng ý với điều đó. Chúng tôi không tranh chấp với nhà nước, bằng chứng là biết bao nhiêu như ông Chủ tịch nói trong các cơ sở giấy tờ kê khai của linh mục Nguyễn Tùng Cương lúc đó là quản lý của Tòa Tổng Giám mục. Có 95 cơ sở, chúng tôi có đòi cơ sở nào đâu vì thực sự những cơ sở đó dùng vào lợi ích chung. Chẳng hạn như cái trường Hoàn Kiếm, chúng tôi không bao giờ dám nói tới, cái bệnh viện Xanh-pôn chúng tôi không bao giờ dám nói tới, cái bệnh viện Bài Lao chúng tôi không bao giờ dám nói tới vì sử dụng vào mục đích chung. 
Nhưng cái khách sạn Láng Hạ chúng tôi sẽ nói tới bởi vì sử dụng vào mục đích kinh doanh. Và cái tòa khâm sứ đã thành cái nơi sàn nhảy, đã thành cái nơi kinh doanh buôn bán, đã có cái dấu hiệu buôn bán chia trác để làm cái trung tâm thương mại. Chúng tôi nói bởi vì nó không phải của nhà nước mà nó rơi vào tay tư nhân, cho nên chúng tôi nói, chúng tôi không có tranh chấp với nhà nước. Nhưng chúng tôi nói lên tiếng nói của công lý. Đó, bằng chứng là cái trường Hoàn Kiếm chúng tôi có bao giờ dám đòi đâu, bởi vì nó phục vụ lợi ích chung. Các bệnh viện cũng phục vụ lợi ích chung".
-Thường Trung: Xin thưa ông Ngô Quang Kiệt, không chỉ có Công giáo mới có nguyện vọng chính đáng đâu, mà bất cứ tổ chức tôn giáo, đoàn thể, cá nhân nào cũng đều có. Còn nói mảnh đất đó gần gũi và gắn bó với các ông thì chưa đủ đâu. Bởi mảnh đất đó còn gắn bó với thăng trầm lịch sử của dân tộc và của Phật giáo suốt 700 năm cho đến ngày nó bị Giám mục Puginier cưỡng chiếm.

Mảnh đất đó không chỉ gần gũi, gắn bó mà còn trở nên thiêng liêng đối với Phật giáo và từng là niềm tự hào của toàn dân tộc. Bởi chùa Báo Thiên là ngôi chùa nổi tiếng nhất kinh thành, với lễ hội Báo Thiên được xem là lớn nhất cả nước, vua Lê còn thường xuyên tổ chức rước tượng Pháp Vân về đây để tổ chức cầu mưa. Nếu Phật giáo yêu cầu phục dựng lại chùa Báo Thiên song song với nhà thờ Lớn để hòa hợp và gắn kết tôn giáo thì thưa ông Ngô Quang Kiệt, việc làm đó có chính đáng không. Tôi dám chắc rằng nếu ông hỏi hết tất cả những người Phật tử trên mảnh đất Việt Nam này thì họ đều đồng thanh nhất trí với nguyện vọng đó. Nhưng không lẽ, nguyện vọng đó của người Phật tử là phải vác bùa, xà beng cầu nguyện gây sức ép lên chính quyền và tạo mâu thuẫn với người Công giáo để bằng mọi cách có được hay sao?

Xin thưa thêm với ông Kiệt, không chỉ có Công giáo mới có những cơ sở phục vụ mục đích chung thôi đâu. Phật giáo và tôn giáo khác cũng vậy. Tôi xin đơn cử để ông tham chiếu. Việt Nam quốc tự tại Thành phố Hồ Chí Minh rộng mấy mẫu, nếu tính hết thì cả khách sạn và nhà hát Hòa Bình đều là đất của chùa. Cũng là nhảy múa vui chơi, cũng là khách sạn nhà hàng cả chung quanh chùa..., nhưng nếu Phật giáo cũng vì thế mà vùng lên cầu nguyện, gây sức ép với chính quyền, ông nghĩ Việt Nam này đang là cái gì? Các tôn giáo chung tay xây dựng đất nước như vậy sao? Mong muốn phát triển mà quậy tung trời như vậy sao? Phật giáo nhượng bộ một số chuyện về đất đai thì nhà nước cũng hiểu ra mà tùy nguyện vọng xem xét, cấp cho Phật giáo một vào khu đất khác để xây dựng cơ sở tôn giáo. Đó cũng là những điều ứng xử vừa có tình vừa có lý. Nếu ai cũng chỉ nghĩ cho riêng mình thì cộng đồng này làm gì có chữ “hòa hợp”, “đòan kết” để mà cho ông mong muốn như phát biểu của ông. Và nếu quả thực các ông không có ý kiến gì với những cơ sở phục vụ lợi ích chung, vậy tại sao khi vừa nghe tin quy hoạch đất “Tòa khâm” làm công viên cây xanh và thư viện đọc sách thì ông Ngô Quang Kiệt lại làm đơn khiếu nại khẩn cấp bằng những lời lẽ đe dọa, thiếu đoàn kết như vậy?

Ông đòi giấy tờ trưng thu của nhà nước là ông chỉ biết có chữ “đòi” mà thôi. Nhưng ông không hiểu rằng vào thời điểm ông sinh ra năm 1952?, đất nước đang trong tình hình chiến tranh chia cắt. Giấy tờ, văn thư lưu trữ trong những điều kiện hòan cảnh ấy (nếu có) cũng không hẳn đã giữ gìn được toàn vẹn, bởi ngay tận đến năm 1972, Mỹ trải thảm bom miền Bắc, Hà Nội bị đánh tan hoang. Nếu như những giấy tờ do chạy bom hay do bom phá hủy bị mất và thất lạc chẳng hạn thì không biết ông có “ép đòi” bằng được nhà nước phải đưa ra cái mảnh giấy “trưng thu” hay “tịch thu” gì gì đó không. Nhưng nếu nhà nước nói mất thì các ông sẽ bảo là nhà nước nói sai, ngụy biện. Nhà nước không đưa ra thì ông bảo nhà nước không có tính pháp lý về mặt giấy tờ tịch thu, trưng thu.

Nhưng nếu nhìn vào những điều kiện lịch sử lúc đó với những nghị định, thông tư, luật đất đai, cũ thể là Luật Cải cách ruộng đất, cũng như những chính sách cải tạo nhà cửa thì ông phải hiểu rằng không có cơ sở tôn giáo nào là được đặt mình ra ngoài cả. Chính vì vậy năm 1961 linh mục Nguyễn Tùng Cương mới bàn giao lại cho nhà nước quản lý. Hơn nữa, quả thực tâm lý sợ hãi của tôn giáo không phải không có nhất là sau những vụ tố khổ trong cải cách ruộng đất. Nếu lấy cái tâm lý, pháp lý và vân vân thứ thời đó để đưa vào điều kiện hoàn cảnh hiện tại thì vĩnh viễn không cách gì có thể đối thoại với nhau được.

Đó cũng là lý do vì sao hơn 50 năm trước các ông chẳng ai đòi nhà nước giao giấy tờ trưng thu, tịch thu… Nay không thấy có những giấy ấy tờ ấy trong tài liệu nhà thờ bèn tìm cách lật ngược lại. Quả thực là rất tuyệt chiêu. Và các ông cũng biết chắc, dù lịch sử có chứng minh rõ rằng chùa Báo Thiên bị giám mục Puginier chiếm phá, nhưng vì nó không có giấy của chứng quyền thực dân chứng nhận, thì các ông cũng sẵn sàng phủ nhận bất chấp lương tâm. Quả thực chứng nhận sao được khi dưới thời phong kiến quan niệm: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Nhân dân ngầm hiểu chùa là của làng nên cần gì phải giấy tờ. Vả lại chính quyền thực dân và các ông là một giuộc, chính sách đập phá chùa chiến là nhất quán, làm gì có chuyện cấp giấy chứng nhận cho chùa. Do vậy, trong đầu các ông, giấy tờ đã bị nhét vào đó quá nhiều rồi nên khi tranh cãi các ông thường hay phun giấy tờ ra làm luận điệu, nhưng khốn nỗi đó là những giấy tờ không còn hiệu lực khi chính thể cầm quyền thay đổi. Giấy tờ ấy có phải được hợp thức hóa bằng “công lý và hòa bình” hay không cả dân tộc Việt Nam này đều biết rõ, và chính các ông cũng biết rõ. Có lẽ không cần phải nói nhiều nữa, vì nói nhiều e rằng tất cả những điều người Công giáo đã từng đối xử với Phật giáo chỉ gợi thêm những buồn đau, tan nát, mất mát mà thôi.

Thưa thêm với ông, làm sao ông có thể tranh chấp với nhà nước khi ông không phải là chủ thể tương đồng, ngang hàng mà chỉ là người công dân như bao người công dân khác. Và không phải ông chỉ có quyền mà còn phải có cả nghĩa vụ với pháp luật và nhà nước. Quyền của ông là được nhà nước bảo vệ, nghĩa vụ của ông là phải tuân thủ pháp luật. Ông ăn nói trịch thượng, đòi hỏi vô điều kiện như vậy phải chăng ông cũng là người đặt ra "pháp luật"? Ông hãy suy nghĩ thêm về những đòi hỏi vô lối của Công giáo dưới thời thực dân, tương chiếu vào hiện tại thì lời giải cho "công lý và hòa bình" sẽ có ngay thôi. 

-NQK: Và bây giờ chúng tôi xin nhắc lại chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Thật ra cái anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu nó đi là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta. 
Tôi cũng mong đất nước lớn mạnh mà làm sao phải thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng. Thế nhưng chúng ta không chỉ có tình cảm mong muốn mà được, phải có những lý luận xây dựng thật là vững chắc, cái căn bản pháp lý. 
Một lần nữa, chúng tôi hết sức cám ơn ông Chủ tịch và tất cả UBND TP. Hà Nội đã dành cho chúng tôi một buổi tiếp đón thật là trân trọng, thân tình, hứa hẹn những trao đổi khác, chúng tôi hy vọng mới có thể chúng ta hiểu nhau hơn. Và mới có thể làm cho TP. Hà Nội chúng ta nói riêng tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long được vui vẻ, xứng đáng là thành phố Hòa bình và trong hòa bình phải có công lý. Và làm cho đất nước chúng ta càng ngày càng phát triển. Cám ơn!”. 

-Thường Trung: Thưa ông Ngô Quang Kiệt, không hiểu ông muốn xây dựng xã hội tốt đẹp như thế nào, nhưng khi vụ cầu nguyện “Tòa Khâm sứ” xảy ra đến mức phá đổ cổng, đánh người trọng thương, rời tượng Đức Mẹ, cắm mốc thánh giá, dựng lều bạt chiếm “Tòa Khâm sứ”, Chính quyền Thành phố Hà Nội mỏi miệng khuyên can thì ông nhất mực không nghe. Tức ông muốn thực thi cái “công lý và hòa bình” bằng tham vọng riêng của ông. Nhưng điều đáng nói, nếu những hành vi chiếm phá đó là đúng, hợp pháp và công lý thì bức thư gửi kêu chấm dứt hành vi cầu nguyện quá khích của Quốc vụ khanh Vatican phải chăng là không phù hợp với cái “công lý” đang được ông lên gân ấy?

Thế thì người ta buộc phải đặt câu hỏi, tại sao ông mong Việt Nam có hòa bình, công lý, phát triển mạnh, được tôn trọng mà Chính quyền nói ông bỏ ngoài tai, còn lá thư của Quốc vụ khanh Vatican thì ông nghe một cách vô điều kiện và không bàn cãi gì như thế? Chắc là các ông cùng nhau làm "thánh" hết cả rồi lên lời phán mới có giá trị như thế?

Vatican đã từng làm những lợi ích gì cho dân tộc này? Hay ở ngay những thời điểm cả nước dồn sức đánh đuổi ngoại xâm, Giáo hoàng của Vatican liên tục thúc giục Mỹ bỏ bom nguyên tử tại miền Bắc. Bởi lúc đó những người nghe tin Đức Mẹ vào Nam đã kéo nhau bỏ vào theo, nên ngoài Bắc không còn “dân Chúa” nữa, nếu kẻ nào đó “theo Chúa” mà còn ở lại (có thể đó là những người không thể đi, những người có lòng yêu nước, chung vai góp sức với vận mệnh của dân tộc) thì cũng có nghĩa là họ phản bội, họ đáng được nhận hình phạt bom nguyên tử chung với Cộng sản? Và mới đây thôi, trong Đại hội của những người Công giáo trẻ trên thế giới được tổ chức tại Úc, ông Giáo hoàng Benedict XVI đã chính thức quàng trên cổ mình chiếc lá cờ ba sọc của chế độ Sài Gòn cũ. Ông Ngô Quang Kiệt có vì vậy mà phản đối Giáo hoàng để xây dựng khối đại đoàn kết cho dân tộc Việt Nam này không?

Chỉ có một điều đơn giản có thể hiểu mà không cần phải dài dòng với quá nhiều “mong muốn” đãi đuôi sau khi ông đã nói gần như mất trí một câu: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”. Ông Ngô Quang Kiệt là một công dân Việt Nam, trước cái quyền của công dân còn có nghĩa vụ của người công dân. Ông hãy làm tốt cái nghĩa vụ của ông là tuân thủ pháp luật thì cái quyền của ông không ai lại không tôn trọng.

Khi ông miệt thị dân tộc bằng cách so sánh với Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước phát triển để tự hạ thấp dân tộc mình, ông ta đã chứng tỏ rằng mình không phải là “công dân” Việt Nam. Ông có thể xấu hổ phần nào với những hình ảnh người Việt Nam khi đối xử không đẹp mắt nơi đất khách quê người... chứ ông không thể nhục nhã khi mang quốc tịch Việt Nam được. Người Việt có câu “Chồng em áo rách em thương, chồng người áo gâm xông hương mặc người”. Đó là cái tình chung thủy. Và đúng là đất nước này chỉ mạnh khi người dân biết tôn trọng pháp luật và chung thủy sống chết với nó thôi thưa ông. Còn nếu cứ đem luật rừng (chiếm đất trước, đối thoại sau) của riêng mình ra ca tụng là “công lý và hòa bình” bất chấp luật pháp quốc gia thì cái mong muốn của ông là cái mong muốn hão huyền, giả tạo.

Ông hãy nghe lại những gì mà ông đã đe dọa: “Chúng tôi có quyền sử dụng những khả năng có thể để bảo vệ tài sản của chúng tôi” (Đơn khiếu nại khẩn cấp) thì rõ ngay tâm ý của mình thôi. Đó cũng chính là những hô hào đồng thanh tương ứng trên khắp các thông tin của Công giáo rằng sẽ có một cuộc lật đổ làm thay đổi chính quyền. Và ông hãy thử bình tĩnh dạo khắp một vòng thông tin trên các trang nhà Công giáo xem có chỗ nào không có những lời khích động “hiệp thông” chiếm đất tới cùng, xuyên tạc, bôi nhọ nhà nước Việt Nam… không? Đó là những mong muốn cho đất nước phát triển của ông sao? Để đất nước này nằm trong tay Cộng sản thì mong phát triển sao được phải không thưa ông? Đó chẳng phải là điều các ông đang rêu rao hay sao? Vậy thì để chạy tội cho câu nói hớ miệt thị dân tộc của ông, ông lại nhanh chóng chuyển lời bằng một “bài ca” phát triển, lớn mạnh và được tôn trọng ở phía sau, chẳng phải rất buồn cười và rất xa vời với những hành động đang diễn ra của các ông hay sao?

Và điều đáng nói sau câu nói hớ ấy (theo phân tâm học thì chẳng hớ đâu vì đó là những gì mà trong tâm mình bấy lâu suy nghĩ nên chẳng thể kiểm soát được thôi) nhiều người đã thương cảm mà biện hộ cho ông trước dư luận đang phẫn nộ. Người ta thường bảo “tâm nghĩ, miệng nói, thân hành động”, và ai cũng nhận ra đó là một thể thống nhất ở trong ông lúc này. Đã vậy khi phát biểu như thế ông không tự chiến thắng mình để nhận lỗi với người dân Việt Nam lại còn để con chiên khắp nơi ngụy biện và lại tiếp tục một bài ca: nhà nước chơi trò cắt xén ngữ cảnh lời phát biểu của ông. Ông biết không, câu nói ấy ở người bình thường thì khác nhưng ở miệng những người có vai vế và đang hăng say “cầu nguyện” chiếm đất như ông thì càng ở ngữ cảnh đó càng là một sự mỉa mai với chính ông.

Nhưng với những hành động thống nhất từ đầu cho tới cuối và với những đe dọa trong đơn khiếu nại khẩn cấp của ông, hẳn ông tự trả lời được với chính mình rằng ông mong đất nước này phát triển tới đâu phải không thưa ông Ngô Quang Kiệt. Và trong lúc đất nước còn ngổn ngang trăm mối, lạm phát tăng cao, người dân nghèo vô cùng khó khăn, giặc ngoại xâm tung tin đồn đánh chiếm, thực tế tranh chấp Biển Đông là đáng quan ngại… Thế mà ngay tại thủ đô Hà Nội ông xách động giáo dân quậy phá. Đó là những gì ông mong đất nước phát triển phải không thưa ông?

Ông có nhớ không, ngày 27-8-1964, linh mục Hoàng Quỳnh đưa ra khẩu hiệu “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” để hô hào giáo dân liều chết phục hồi chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm mới bị lật đổ vào ngày 1-11-1963. Và hôm nay những lời đe dọa, xách động, xuyên tạc của ông cũng đã hợp thức hóa cho câu nói này: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”, trở thành lịch sử. Cũng như câu nói nổi tiếng của Giám mục Puginier: “Không có sự hộ trợ của giáo dân Việt Nam, quân Pháp như con cua bị bẻ gẫy hết càng, không có cách gì để có thể xâm chiếm nổi Việt Nam”. Những vết xe đổ đã dần hiện ra. Sự tương đồng đến kinh ngạc. Và mỉa mai thay đó lại được thể hiện trong ngữ cảnh “mong muốn” đất nước phát triển, lớn mạnh, được người khác tôn trọng của ông mà những con chiên của ông đang cố tình bào chữa. Xin ông hiểu thêm điều này, trước khi muốn được dân tộc khác tôn trọng phải chăng mỗi người Việt Nam phải tự biết tôn trọng mình, tôn trọng đồng bào mình, tôn trọng dân tộc mình.

Thường Trung

Wednesday, September 24, 2008

Charlie Nguyễn - Từ "Giáo Lý" Căn Bản Đến "Phép Lạ Lộ Đức"

Đọc những tài liệu của chính những nhà nghiên cứu phương tây hiện đại khi Vatican không còn sức mạnh để đưa họ lên giàn hỏa khi họ dám nghiên cứu sự thật về "Hội Thánh La-mã", chúng ta phải trố mắt trầm trồ vì tài nghệ bịp bợm của cái "Hội Thánh" này.

Thật ra "Hội Thánh" bịp một cách rất khoa học cho nên họ rất thành công, những người này có tài "quản trị kinh doanh" bẩm sinh. Nhưng nghề của họ là bịp bợm kinh doanh linh hồn, họ có thể bán cái mà họ không có - một cái bánh trên trời (a pie in the sky) - thế mới là siêu đẳng!

Họ hiểu và nắm bắt được thực tế nhu cầu dựa dẫm linh hồn của một số rất đông con người. Con người luôn có lòng tham, trong đó có tham sống. Có cầu thì phải có cung. Người phương tây rất giỏi kinh doanh, cho nên về khoản kinh doanh linh hồn này họ cũng xếp sòng. Và nguồn lợi từ ngành kinh doanh linh hồn này không thể đếm hết được. Vì nếu họ chỉ cần bán được cái bánh vẽ trên trời đó cho một thiểu số dân của một nước thôi thì cái đám cừu mới thu thập được này sẽ ngoan ngoãn dâng đất nước của họ lên cho Vatican để đổi lấy cái bánh vẽ trên trời đó!

Như vậy vốn kinh doanh của họ là gì? Là giáo lý xào nấu dựa trên những huyền thoại do họ tạo ra và những "phép lạ" lâu lâu xuất hiện để nhắc nhở tín đồ họ phải thờ cái gì. Và những trò bịp bợm này cộng với lời đồn thổi và sự công nhận của chính ... "Tòa Thánh" đã trở thành "Thánh Tích". Cái "Tòa Thánh" này đụng vào cái gì thì cái đó cũng thành "Thánh" hết. Nếu Jesus không bị hành hình trên cây "Thánh" Giá mà bị chặt đầu bằng mã tấu hay chết trên ghế điện thì ngày nay chúng ta đã có "Thánh" Mã Tấu hay "Thánh" Ghế Điện rồi.

Hitler nói: "Chuyện nói láo phải hoành tráng, nhưng đơn giản. Lặp đi lặp lại nhiều lần thì cuối cùng người ta cũng sẽ tin nó" (Make the lie big, make it simple, keep saying it, and eventually they will believe it). Nhưng Hitler bất quá cũng chỉ đủ sức làm cho dân nước ông ta tin ông ta thôi. Nhưng cái đó cũng không phải là lừa gạt vì nếu nước Đức thắng trong Thế Chiến II, thì người Đức đã làm cha thiên hạ rồi.

Trường hợp "Tòa Thánh" Bịp thì khác, người Việt Nam đã và đang chống lại chính dân tộc họ theo lời kêu gọi của "Thánh" chăn cừu, đã "tử vì đạo" vì "Tòa Thánh" để mong có một chỗ trên thiên đàng mà không ai thấy!

Sau đây là câu chuyện về "Phép Lạ Lộ Đức" (Lourdes). "Giáo Hoàng" đương nhiệm vừa ghé thăm nơi này nhân chuyến thăm Pháp 4 ngày để kỷ niệm sinh nhật 150 năm của "Thánh Tích" này . Câu chuyện này rất thú vị vì hoàn cảnh ra đời của nó, năm 1858, năm liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ phát súng đầu tiên xâm lược Việt Nam.

Lúc này, người Pháp đã lật đổ được ách thống trị của Giáo Hội Công Giáo được 69 năm, họ đã nguôi ngoai và thấy rõ cần phải hợp tác với Vatican để tấn công Việt Nam. Về phần Vatican thì đang rất cần một "phép lạ" để lấy lại thế đứng của mình sau cách mạng và sau khi bị các nhà khoa học tấn công giáo điều của họ không thương tiếc.

Bài này ông Charlie Nguyễn viết năm 2003 nhưng tính thời sự của nó vẫn còn nóng hổi. Không biết các ông chức sắc "Công Giáo" của Việt Nam có biết những chuyện mà cả thế giới phương tây và phương đông đều biết này không. Biết hay không biết gì thì cũng đều chứng minh được một điều là trình độ chăn chiên của Vatican là xuất quỉ nhập thần, và giáo dân Việt Nam là loại cừu thuộc hàng ngoan ngoãn nhất trên thế giới của Vatican!

Bài này cũng nói về giáo lý căn bản làm nên sức mạnh trói buộc tín đồ do "Thánh" Augustine xào nấu tạo ra thật là hấp dẫn cho đến khi các nhà khoa học hất đổ nó.

Để ý khái niệm "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" được chú thích là dịch từ nhóm từ "The Virgin of the Immaculate Conception". Tôi nghĩ đây là khái niệm của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dùng chính thức vì tác giả Charlie Nguyễn là một người Công Giáo. Cái tên dịch ra này hơi xa với ý tiếng Anh, không biết tiếng Pháp họ gọi thế nào, gần với nghĩa tiếng Anh hay tiếng Việt. Nếu dịch sát nghĩa theo tiếng Anh thì nghe rất tức cười, không nuốt nổi, đó là "Đấng Đồng Trinh của Sự Thụ Thai Tinh Khiết"! Không biết các "đấng chăn chiên" có cố tình dịch một cách mơ hồ để mấy con cá dễ nuốt mồi câu hay không!

Còn nhiều chuyện tức cười nữa, không đọc là lỗ ráng chịu.

---------------------------------------------

DO VATICAN VÀ HOÀNG GIA PHÁP DÀN DỰNG NĂM 1858

ĐÃ NÔ LỆ HÓA NHỮNG LINH HỒN MÊ MUỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM

Để trình bày chuyện bịp "hang đá Lộ Đức" một cách rành rẽ và để qúi vị độc giả dễ nắm bắt các tình tiết hết sức phức tạp của câu chuyện này, tôi phải bắt đầu kể chuyện hầu quí vị bằng những khám phá mới nhất của Nhân Chủng Học (Anthropology) mới được công bố và được các tuần báo lớn nhất của Mỹ loan báo trong tháng 6-2003 vừa qua. Sau đó tôi sẽ đối chiếu với khoa thần học hoang tưởng của St. Augustine để tố cáo thủ đoạn lừa bịp của Vatican qua các tín điều do họ công bố nhằm mục đích đầu độc và nô lệ hóa con người. Cuối cùng là vạch trần âm mưu của Vatican cấu kết với chính quyền hoàng gia Pháp giữa thế kỷ 19 trong việc dàn dựng màn kịch bịp bợm "hang đá Lộ Đức" như thế nào. Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của giáo hội Công giáo Việt Nam là giáo hội luôn luôn chỉ biết cúi đầu vâng phục Vatican một cách mù quáng hèn hạ nên đã đạt kỷ lục xây cất nhiều "hang đá Lộ Đức" vượt trội tất cả các giáo hội công giáo khác trên khắp thế giới!

Đây là một hiện tượng bất bình thường trong sinh hoạt chung của cộng đồng Công Giáo hoàn vũ. Hiện tượng bất thường này đã vô tình hé mở cánh cửa bí mật của lịch sử để chúng ta thấy được một phần nào của sự thật đã bị che khuất về vai trò gián điệp của nhân vật Nguyễn Trường Tộ. Có một điều mà toàn dân Việt Nam nên nhớ: Cả hai soạn giả kiêm đạo diễn của vở kịch bịp bợm "Phép lạ Lộ Đức" là Giáo Hoàng Pio IX và hoàng đế Pháp Napoléon III đã luôn luôn sát cánh với nhau trong chủ trương xâm chiếm Đông Dương để mở rộng thuộc địa và nước Chúa. Cả hai nhân vật chóp bu về thần quyền và thế quyền này đều có quan hệ mật thiết với các giáo sĩ Pháp nổi tiếng ở Việt Nam thời đó là giám mục Pellerin, giám mục Puginier, linh mục Huc, giám mục Gauthier và gián điệp Nguyễn Trường Tộ. Giám mục Gauthier là thầy dạy của Nguyễn Trường Tộ trong 10 năm. Nguyễn Trường Tộ luôn luôn tỏ ra trung thành với các giám mục Pháp, hết lòng tuân phục Giáo Hoàng và tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican.

Tóm lại màn bịp bợm "Phép lạ Lộ Đức" chẳng những là một biến cố thần học trong nội bộ giáo hội Công Giáo. Đồng thời về mặt chính trị, "Phép lạ Lộ Đức" cũng có những hệ lụy oan trái in hằn lên vận mệnh đau thương của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn đầu của lịch sử mất nước hồi hậu bán thế kỷ 19. Đây là một vấn đề nhức nhối dễ gây tranh cãi và dù sao cũng còn là một nghi vấn lịch sử cần được các sử gia làm sáng tỏ thêm. Do đó, tôi xin dành vấn đề này lại để trình bày trong một bài viết riêng. Sau đây, tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề liên quan trực tiếp đến "Phép lạ Lộ Đức" mà thôi.

I.- Nhân chủng học đối diện với lịch sử qua bằng chứng cụ thể về "Bà Evà thật".

Tuần báo Newsweek, số ra ngày 23-6-2003 (trang 14) có đăng bài "Nhân chủng học đối diện với lịch sử" (Anthropology in the face of History). Kèm theo bài báo là hình ảnh chiếc sọ hóa thạch của một phụ nữ, bên dưới có ghi chú: "Tất cả sự thật về Bà Evà: Tấm ảnh chụp sọ người cổ xưa nhất đã được tìm thấy tại Phi Châu" (All about Eve: Portrait of the oldest human from Africa).

Tác giả bài báo Mary Carmichael viết: "Đối với họa sĩ Michael Angelo thì bà Evà là một phụ nữ da nâu, mắt đen dễ thương. Đối với họa sĩ Pháp Rodin thì bà Evà là một phụ nữ đầy cám dỗ nhục dục. Đối với các nhà khoa học, khuôn mặt thật của bà tổ nhân loại thật khó nắm bắt (the human matriarch's face has always been elusive). Tuy nhiên vào năm 1987, các nhà di truyền học (geneticists) đã kết luận rằng: Bà Evà Phi Châu (có hình sọ kèm theo bài báo) đã sống trên mặt đất 160,000 năm trước đây là "bà tổ cuối cùng" của toàn thể loài người (The African Eve who lived 160,000 years ago, was the last ancestor of all humans). Đó là sọ hóa thạch của con người khôn ngoan (Homo Spiens) cổ nhất nhân loại đã được tìm thấy. Gọi là "tổ tiên cuối cùng" vì con người khôn ngoan (Homo Sapiens) là loại người xuất hiện trong giai đoạn chót của quá trình tiến hoá của nhân loại.

Các cuộc khảo cứu tổng hợp của các nhà khoa học khảo cổ, nhân chủng học, di truyền học và cổ sinh vật học đã đi đến hai kết luận :

1.- Nguồn gốc con người xuất phát từ Phi Châu, từ đó con người di chuyển đến các lục địa khác trên thế giới.

2.- Điều đặc biệt đáng chú ý là từ xưa đến nay người ta chỉ tìm thấy các sọ người hóa thạch một cách riêng rẽ và chưa bao giờ tìm thấy sọ cùng với xương thân mình và xương chân ở một chỗ. Đây là bằng chứng cụ thể về thói tục ăn thịt người (cannibalism) trong sinh hoạt thường ngày của loài người Homo Sapiens. Trước khi bị ăn thịt, đầu của nạn nhân luôn luôn được chặt ra để vứt bỏ, thân mình và tay chân của nạn nhân được nướng chín trên đống lửa hoặc được nấu chín. Do đó, chỉ có xương sọ là còn tồn tại đến ngày nay, còn các xương mình và tay chân đều đã bị hủy hoại và bị vứt bỏ riêng rẽ cách xa xương đầu.

Tuần báo Time, số ra ngày 23 tháng 6-2003, hai tác giả Lemonick và Dorfman cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về "bà Evà thật của nhân loại" (trang 56-58) như sau: "Người khôn ngoan đầu tiên của nhân loại có hình hài như chúng ta, đi đứng như chúng ta và trong một số phương cách nào đó, họ cư xử như chúng ta" (The first Homo Sapiens look like us, walked like us and in some ways acted like us as well).

Sở dĩ sọ người phụ nữ có hình in trên báo Newsweek được coi là "Bà Evà của khoa học" vì đó là sọ người khôn ngoan (homo spiens) cổ nhất. "Người khôn ngoan" là loại người xuất hiện trong giai đoạn chót của quá trình tiến hóa của nhân loại. Nếu con người bị coi là bắt đầu biết phạm tội thì chỉ có thể phạm tội khi bắt đầu có trí khôn mà thôi. Người đàn bà đầu tiên của "loài người đứng thẳng" (Homo Erectus) cách chúng ta 2 triệu năm không được coi là "bà tổ Evà" của nhân loại vì "bà tổ" (matriarch) này giồng vượn nhiều hơn giống chúng ta !

Sọ người đàn bà Homo Sapiens cổ nhất đã được tìm thấy tại miền Herto thuộc nước Ethiopia do một sự tình cờ vào năm 1987. Vào dịp đó, một cơn bão làm nước biển dâng lên tràn ngập miền Herto làm trơ ra rất nhiều xương hóa thạch đã từng bị chôn vùi nhiều ngàn năm dưới những lớp đất sâu.

Sọ của "bà Evà thật" được phát hiện cùng một lúc với nhiều bộ xương hóa thạch của hà mã, cá sấu, sư tử, ngựa vằn và chó rừng. Tất cả các hóa thạch này đều có chung một niên đại là 160,000 năm. Điều đó cho thấy các tổ tiên xa xưa của chúng ta đã phải chiến đấu rất gay go để tồn tại giữa một môi trường đầy thú dữ và với đồng loại thích ăn thịt đồng loại.

Cuộc khảo sát "sọ bà Evà Homo Sapien" là một công trình khoa học quốc tế, được đặt dưới sự điều khiển của giáo sư Tim White thuộc đại học Berkeley tiểu bang California. Đầu tháng 6-2003, ủy ban khoa học này công bố kết quả nghiên cứu trước báo chí: "Sọ người khôn ngoan đầu tiên được xác định niên đại 160,000 năm" (The very first true Homo Sapien dated 160,000 years ago). Trong khi đó "Bà Evà của Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái" tính tới nay mới có 6 ngàn năm mà thôi. Điều này cho thấy bà Evà của huyền thoại tôn giáo "trẻ" hơn bà Evà của khoa học tới 154,000 năm.

Trong quá trình tiến hóa hai triệu năm từ "loài người đứng thẳng" (homo erectus) đến loài người khôn ngoan (homo sapiens) có những giống người khác xuất hiện. Đáng kể nhất là giống người Neanderthals. Giống người này xuất hiện tại Phi Châu 500,000 năm trước đây, sau đó họ di chuyển qua Âu Châu và bị hoàn toàn diệt chủng vào 30,000 trước. Giống người này được coi là một nhân chủng ngoại tộc (a side branch) không thuộc dòng tiến hóa của loài người hiện đại của chúng ta.

Những kết qủa nghiên cứu về sọ hóa thạch của "bà Evà Phi Châu" mới được Ủy Ban Khoa Học Quốc Tế công bố trong tháng 6, 2003 là những kiến thức khoa học giá trị dung để cập nhật hóa sự hiểu biết của chúng ta về nhân chủng học. Qua đó, chúng ta nhận thức được một điếu rất rõ rệt là: Trí óc của con người đã tiến triển hết sức chậm chạp. Từ trí óc của loại "vượn người đứng thẳng" (Homo Erectus) đến trí óc của loại người Homo Sapiens đòi hỏi một thời gian tiến triển tới 2 triệu năm! Trí óc của "bà Evà Phi Châu" cách đây 160,000 năm thực sự cũng chỉ ở trình độ trí óc một em bé sơ sinh ngày nay mà thôi. Từ trí óc "sơ sinh" đó đến trí óc "trưởng thành" của nhân loại ngày nay đòi hỏi một thời gian 160,000 năm !

Đó là sự thật không thể chối cãi về qúa trình tiến hóa của tâm linh và trí tuệ loài người. Sự thật khoa học đó xác định rằng: Không thể bỗng dưng có ngay một bà Evà hoàn chỉnh được Thiên Chúa tạo nên từ một khúc xương sườn cụt của Adam!. Cách đây 6000 năm, ngay từ lúc vừa mới được tạo thành, bà Evà đã có đủ trí khôn phân biệt thiện ác, và có đủ "ý chí tự do" để quyết tâm chống lại Thiên Chúa bằng cách xúi chồng ăn trái cấm để phạm cái tội tày trời là TỘI TỔ TÔNG!

Thần thuyết "Tội Tổ Tông" là nền tảng của Ki Tô Giáo (gồm cả Công Giáo – Tin Lành) đã hoàn toàn bị sụp đổ trước các bằng cớ xác thực của khoa học và lương tri con người. Các thần thuyết khác như Sự Cứu Chuộc của Jesus, Phép Rửa Tội, các tín điều về Đức Mẹ, v.v… đếu là những chuyện ngụy tạo vì tất cả đều đã được suy luận ra từ thần thuyết Tội Tổ Tông.

St. Augustine và học thuyết Tội Tổ Tông.

St. Augustine sinh năm 354 tại Algeria, cha là người ngoại đạo, mẹ là tín đồ Kitô Giáo. Khi Augustine lên 16 tuổi được mẹ dẫn qua Ý và đến thăm thành phố Milan. Tại đây, Augustine có dịp nghe giám mục Ambrose thuyết giảng về Thiên Chúa Ba Ngôi, tội Tổ Tông và nhiều điều về bà Maria. Khi trở lại Algeria, Augustine say mê nghiên cứu Kitô giáo và viết sách liền trong 34 năm, tạo dựng nên cả một tòa lâu đài đồ sộ về thần học Kitô giáo. Do công trình vĩ đại về thần học, Augustine được cử làm giám mục địa phận Hippo ở Algeria. Ông này chết năm 430, thọ 76 tuổi. Augustine được các triết gia Tây Phương coi như người thứ hai sáng lập đạo Kitô sau PhaoLồ và là bậc thầy tư tưởng Tây Phương thời Trung Cổ.

Chỉ tiếc một điều là Augustine đã xây dựng cả một nền thần học Kitô giáo đồ sộ trên đống cát, đó là huyền thoại Vườn Địa Đàng của Babylon (The Garden of Eden). Huyền thoại Vườn Địa Đàng nguyên là sản phẩm tưởng tượng của dân Babylon từ 5000 năm trước Công Nguyên. Trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 6 TCN, những người viết Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã vay mượn chuyện Vườn Địa Đàng để phịa ra chuyện ông Adam và bà Evà tổ tông của loài người ăn trái cấm nên đã phạm tội tổ tông di hại cho cả loài người tới ngày nay!

Căn cứ vào huyền thoại Vườn Địa Đàng, Augustine đã xây dựng các học thuyết thần học hão huyền cho Kitô giáo. Quan trọng hơn hết là học thuyết về Tội Tổ Tông, vì đây là học thuyết căn bản và tử đó đẻ ra các học thuyết khác của Kitô Giáo :

Học thuyết Tội Tổ Tông : Augustine giải thích nguồn gốc mọi đau khổ của nhân loại đều bắt nguồn từ tội lỗi "ăn trái cấm" của tổ tiên loài người là Adam và Evà. Tội này được gọi là "Tội Tổ Tông" hay "Nguyên Tội" vì đây là tội đầu tiên của loài người chống lại Thiên Chúa (The Original Sin). Tội Tổ Tông được di truyền cho con cháu muôn đời do sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ. Dù là sự giao cấu hợp pháp giữa vợ chồng cũng là điều tội lỗi vì hành động giao cấu đã bị ô nhiễm do sự thúc đẩy của sự ham muốn nhục dục (The inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual act which was polluted by what is called concupiscene).

Dựa vào lý luận này, Augustine viết thêm cuốn "On Female Dress" để nguyền rủa phụ nữ. Augustine gọi mỗi người phụ nữ trên thế gian là một Evà, kẻ đồng lõa với ma qủi và luôn luôn xúi giục đàn ông chống lại Thiên Chúa. Chính vì tội lỗi xấu xa bắt nguồn từ phụ nữ mà chúa Jesus là con một (the only son) của Thiên Chúa đã phải chết. Đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa (vì Thiên Chúa là Đàn ông Toàn Năng – The Male Almighty), còn đàn bà là cửa hỏa ngục (the devil's gate). Chính Augustine là người đã đem lại cho những người Công giáo niềm tin rằng chỉ có Đức Mẹ Maria là người duy nhất trên thế gian không mắc tội Tổ Tông. Vì thế Đức Mẹ được tôn xưng là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội! Chỉ có một phụ nữ duy nhất trên thế gian không bị Augustine nhục mạ, đó chính là đức mẹ Maria. Đức Mẹ trở thành một biệt lệ vĩ đại !

Mọi người Việt Nam bình thường chúng ta khi nghe nói đến chuyện Adam Evà trong Vườn Địa Đàng đều hiểu rằng đó chỉ là một chuyện thần thoại để kể cho con nít nghe chơi mà thôi. Còn chúng ta có nghe ai thuyết giảng về "Tội Tổ Tông" chắc chắn đa số chúng ta chỉ mỉm cười nghe qua rồi bỏ. Nhưng chúng ta không thể tưởng tượng nổi là cái chuyện hoang đường Adam Evà ăn trái cấm đã khống chế tâm linh Âu Châu suốt 16 thế kỷ qua do những học thuyết thần học hoang tưởng của Augustine!

Học thuyết "Tội Tổ Tông" của Augustine đã trở thành hòn đá tảng vĩ đại của nền văn hóa Kitô giáo Tây Phương và là nền tảng giáo lý cho tất cả các đạo Kitô gồm có Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống Giáo. Các đạo Kitô bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực sự chỉ khác nhau về tổ chức và về một số nghi lễ mà thôi. Nội dung chính yếu về giáo lý của Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống Giáo đều đồng nhất như sau :

"Tất cả mọi người đều sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và bị Thiên Chúa ruồng bỏ vì Tội Tổ Tông. Chỉ vì Tội Tổ Tông mà con người phải đau khổ và phải chết. Không một ai có thể tự cứu mình khỏi tội Tổ Tông, chỉ có một con đường cứu rỗi duy nhất là tin thờ Chúa Jesus là Chúa Cứu Thế mà thôi".

Chính vì tin vào thuyết Tội Tổ Tông như trên nên các đạo Kitô đều coi trọng Phép Rửa Tội (Baptism). Nhiều người nghĩ rằng Phép Rửa Tội là một hình thức cải đạo cho những người tân tòng nhập đạo Kitô hoặc là một "phép bí tích" để cho một đứa bé sơ sinh nhập đạo Chúa một cách long trọng chính thức. Thực sự không phải vậy. Chính vì các người Kitô giáo tin rằng mọi người sinh ra đều nhiễm tội Tổ Tông, cho nên các đứa trẻ mới được sinh ra cũng cần phải được rửa tội để nó được lãnh nhận ơn cứu chuộc của chúa Jesus! Mặc dầu đứa bé sơ sinh hoàn toàn vô tội về phần nó, nhưng nó đã bị nhiễm tội Tổ Tông do Adam và Evà truyền lại qua sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ nó. Đó là lý do chính yếu dẫn đến sự rửa tội cho mọi đứa bé mới sinh theo học thuyết của Augustine (The inherited guilt was passed on to all his descendants through the sexual act of their parents).

Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ kỹ sẽ nhận ra một điều mâu thuẫn là khi hai người nam và nữ làm đám cưới tại nhà thờ là đã "thánh hóa" bởi phép "bí tích hôn phối". Vậy chẳng lẽ "phép bí tích hôn phối" của Chúa lập ra không có khả năng "thánh hóa" việc chăn gối của vợ chồng bắt buộc phải có để sinh con hay sao? Vậy vợ chồng làm phép hôn phối theo đúng luật đạo để làm gì khi hành động giao cấu giữa vợ chồng rất tự nhiên và hợp pháp ấy vẫn cứ truyền tội Tổ Tông cho đến muôn đời?

Thật sự ngày nay chẳng còn mấy tín đồ Kitô giáo tin vào tội Tổ Tông, nhưng người ta vẫn cứ mang các đứa bé sơ sinh đến nhà thờ rửa tội theo truyền thống lâu đời của gia tộc. Giáo hội cũng biết chẳng làm gì có tội tổ tông, nhưng vẫn cứ để nguyên cho các linh mục có công việc làm để kiếm ăn và giáo hội vẫn tiếp tục tồn tại trong bình an vô sự. Chẳng những thế, hầu hết những người ngoại đạo muốn lấy vợ hay chồng theo Kitô giáo đều phải cam kết cho phép các con sẽ sinh ra sau này được chịu phép rửa tội. Đây chỉ là một mánh lới lưu manh của các giới lãnh đạo Kitô giáo dùng để giành giựt tín đồ qua đường hôn nhân mà thôi. Việc rửa tội cho các đứa bé sơ sinh là một hình thức vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của đứa bé một cách thô bạo và trắng trợn. Muốn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng thật sự, người lớn phải đợi đến khi đứa bé lớn khôn để tự nó chọn lựa tín ngưỡng cho riêng mình.

Cái gọi là "Phép Bí Tích Rửa Tội" (Baptism) hoàn toàn dựa trên thuyết thần học hoang tưởng của Augustine về Tội Tổ Tông. Những khám phá của khoa học hiện đại đã hoàn toàn phủ bác sự hiện hữu của "bà Evà xúi chồng ăn trái cấm" như được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước. Do đó chúng ta có thể khẳng định rằng: Tội Tổ Tông là chuyện hoàn toàn hoang đường và ấu trĩ. Cả loài người chúng ta sinh ra hoàn toàn vô tội, do đó chúng ta chẳng cần phải "chịu phép rửa tội" để tẩy xóa bất cứ một thứ dấu vết tội lỗi nào mà chúng ta không hề có.

Nhân tiện, tôi có vài điều muốn nói với ông Đỗ Mạnh Trí, tác giả cuốn "Ngón Tay và Mặt Trăng". Nơi trang 55 và 62, ông Trí viết: "Nhiều bạn nhắc tới ý niệm tội và tội tổ tông trong Kitô giáo một cách mỉa mai, thậm chí phẫn nộ". Trần Văn Kha trích Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ: "Adam Evà không phải thủy tổ loài người vì con người đại khái đã xuất hiện cách đây khoảng nhiều triệu năm. - Nếu Adam Evà không phải thủy tổ loài người thì làm gì có tội tổ tông? - Nếu không có tội tổ tông thì làm gì có chuyện Chúa phải giáng trần để cứu chuộc? Vậy Kinh Thánh hoàn toàn huyền hoặc, phi lý và "đạo Thiên Chúa hoàn toàn đã được xây dựng trên những ảo tưởng" như lời của Nguyễn Văn Thọ trên kia?"

Nơi trang 63-64, ông Đỗ Mạnh Trí xác nhận: "Truyện Adam Evà ăn trái cấm rồi bị Giavê phạt, chẳng phải là nhà kinh-thánh-học ta cũng có thể tưởng đó là một huyền thoại". Sau khi đã thú nhận chuyện Adam-Evà ăn trái cấm chỉ là một huyền thoại (myth), ông Trí đã tìm cách lý luận vu vơ và hoàn toàn lạc đề để cuối cùng tránh né không dám trả lời thẳng hai câu hỏi của ông Nguyễn Văn Thọ đã nêu.

Vậy ông nêu lên vấn đề tội tổ tông trong sách "Ngón Tay và Mặt Trăng" (từ trang 55 dến trang 68) để làm gì? Một khi ông đã dám nhìn nhận chuyện Adam Evà ăn trái cấm là một huyền thoại (myth )tức là một chuyện phịa (a fictitious story) thì với lương tâm tối thiểu của một người trí thức lương thiện ông cần phải đi tiếp vài bước: - Nếu chuyện Adam Evà ăn trái cấm là chuyện phịa thì "tội tổ tông" là chuyện hoang đường không có thật. – Vì không có tội tổ tông, nên cũng chẳng cần Chúa phải mất công giáng trần để cứu chuộc, vì con người chẳng cần phải cứu chuộc để làm sạch cái tội mà họ không hề có. - Vì không có tội tổ tông nên không riêng một mình bà Maria là "Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội" mà tất cả mọi người chúng ta đều là "các đấng vô nhiễm nguyên tội" cả !

Ông Đỗ Mạnh Trí có dám nhìn nhận những sự thật hiển nhiên đó không? Ông hãy can đảm lên tiếng trả lời để xứng đáng là một người biết trọng danh dự và lẽ phải.

Từ học thuyết hoang đường về Tội Tổ Tông dẫn đến tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" do Giáo Hoàng Pio IX công bố năm 1854.

Căn cứ trên nền tảng giáo lý xuất phát từ huyền thoại về Tội Tổ Tông, Augustine nêu lên học thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" (The Virgin of the Immaculate Conception) qua lăng kính méo mó về sinh lý của y như sau :

Đức Mẹ không sinh ra Chúa Jesus do sự giao cấu với chồng là ông Joseph nên Đức Mẹ vẫn còn đồng trinh. Chúa Jesus sinh ra do phép của Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ Đồng Trinh nên Chúa hoàn toàn không bị nhiễm tội tổ tông (sinless/immaculate conception).

Những lý luận lẩm cẩm về thần học của Augustine đã thống trị linh hồn Kitô Giáo Âu Châu liên tục trên một ngàn năm! Mãi đến giữa thế kỷ 16 mới có một số trí thức Âu Châu dám viết sách báo lên tiếng đả kích những thuyết thần học của Augustine về một số điểm quan trọng sau đây :

- Trước hết, họ chê Augustine đã thổi phồng quá đáng việc bà Evà xúi chồng ăn trái táo ở vườn địa đàng. Chuyện đó chẳng qua chỉ là chuyện quá nhỏ, không thể khiến cho con một của Thiên Chúa phải xuống thế làm người và chịu chết để cứu chuộc. Nếu chuyện đó là thật thì người đáng trách không phải là bà Evà mà là Chúa Cha lẫn Chúa Con đều ngu quá vì đã không tìm ra được phương cách nào đơn giản hơn để giải quyết cái vụ ăn trái táo của Adam – Evà !

- Khi có cơ hội thư thả tinh thần, đọc lại chuyện Adam-Evà, người ta mới khám phá ra rằng: ông bà tổ tiên loài người không có con gái. Adam-Evà chỉ có hai người con trai là Cain và Abel. Abel bị Cain giết chết nên trên thế gian lúc đó chỉ có hai người đàn ông là Adam và Cain. Từ đầu đến cuối chuyện chỉ có một mình Evà là phụ nữ duy nhất trên thế gian mà thôi. Vậy ai là vợ của Cain? Chẳng lẽ Cain lấy mẹ mình là bà Evà để sinh ra loài người hay sao? Chuyện Adam-Evà là tổ tiên loài người đã đi vào ngõ cụt!

- Cũng theo thần học của Augustine thì sau khi Adam – Evà phạm tội, loài người bị Thiên Chúa tước đoạt nhiều ân sủng nên mọi người đều phải chết, đàn ông phải làm việc cực nhọc mới có miếng ăn, đàn bà phải mang nặng đẻ đau mới có con. Nhưng sau khi Jesus phải chết trên thập giá để "chuộc tội tổ tông" thì mọi hậu quả của tội tổ tông trên số phận loài người cũng vẫn còn y nguyên: con người vẫn phải chết, đàn ông vẫn phải vất vả mới có ăn, đàn bà vẫn mang nặng đẻ đau như lúc Jesus chưa cứu chuộc. Vậy cái gọi là công ơn cứu chuộc của Chúa chỉ là chuyện xảo trá bịp bợm và hoàn toàn vô ích (salvation for nothing).

Phe cấp tiến Âu Châu dùng lý luận của Augustine phá học thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" để đạt mục tiêu cuối cùng của họ là "hạ bệ Jesus". Họ lý luận rằng: Nếu Jesus sinh ra thuộc dòng David thì Jesus phải là con của Joseph và bà Maria, vậy bà Maria không thể đồng trinh và Jesus cũng có 100% tội tổ tông vì cả Joseph và Maria là cha mẹ ruột của Jesus đã được sinh ra do sự giao cấu của cha mẹ họ.

Nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì Jesus chỉ được miễn nhiễm 50% tội tổ tông mà thôi vì bà Maria đã nhiễm tội tổ tông do sự giao cấu tội lỗi của cha mẹ là ông Joachim và bà Anna. Vậy Jesus đã bị nhiễm 50% tội tổ tông do bà Maria truyền qua nên Jesus không thể được coi là đấng chí thánh, và do đó, Jesus không thể là Thiên Chúa !

Cuộc bút chiến giữa các phe thần học Âu Châu chung quanh vấn đề "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" kéo dài tới 30 năm trong thế kỷ 16. Tòa Thánh La Mã không thể dùng lý luận để dập tắt cuộc bút chiến này nên đã phải vận dụng đến biện pháp mạnh của các tòa án dị giáo để đưa nhiều ngàn người lên dàn hỏa. Nhờ đó, cơn sóng gió về thần học đã lắng xuống và tòa lâu đài thần học đồ sộ của Augustine vẫn còn đứng vững thêm vài thế kỷ!

Đúng 300 năm sau, tức vào giữa thế kỷ 19, quyền uy của tòa thánh La Mã đã bị sút giảm nhiều trước cao trào dân chủ lớn mạnh ở Âu Châu. Các tòa án dị giáo bị dẹp bỏ. Cuộc bút chiến vể những học thuyết thần học lại có cơ hội bùng lên. Những vấn đề được nêu lên chung quanh học thuyết "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" có nguy cơ phá sập thanh thế của chúa Jesus và uy tín của giáo hội Công Giáo La Mã. Vatican lúc đó đã bị dồn vào thế đường cùng nên buộc lòng Giáo Hoàng Pio IX phải công bố tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" ngày 8-12-1854.

Bằng cách xử dụng quyền uy tối thượng của người đại diện Chúa Kitô (Vicar of Christ), giáo hoàng buộc toàn thể giáo hội Công Giáo tin rằng: Đức Mẹ là một ngoại lệ đặc biệt do quyền phép của Thiên Chúa ban cho là "không hề mắc tội tổ tông". Do đó, Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Jesus hoàn toàn vô tội (sinless) nên Chúa là đấng chí thánh và cực thanh cực sạch vô cùng!

"Phép lạ Lộ Đức" là màn kịch bịp bợm của Vatican và chính quyền hoàng gia Pháp năm 1858

Tác phẩm "The Great Apparitions of Mary" của Ingo Swann (The Crossroad Publishing Co., NY 1996) kể chuyện Phép Lạ Lộ-Đức ở Pháp năm 1958 (trang 69-84) như sau :

Lourdes (Lộ Đức) là một thị trấn nhỏ trên sườn núi phía bắc của dãy Pyrénées. Vào giữa thế kỷ 19 thì thị trấn này chỉ có khoảng 300 dân, hầu hết đều nghèo khổ vì thị trấn này không có một nguồn lợi kinh tế nào cả. Các thị trấn lân cận đều khá vì có nhiều suối nước nóng thu hút du khách và kiếm lời do việc khai thác kỹ nghệ nước suối có muối kháng (mineral waters). Tại Lộ Đức có một vách đá dốc đứng cao như ngọn tháp (a towering rock cliff) có tên là Massabielle, trong vách đá có một cái hang lớn (a grotto). Chính nơi đây đã được Vatican tuyển chọn để diễn màn kịch bịp bợm.

Nhân vật chính của màn kịch này là cô bé Bernadette. Cô sinh năm 1844, là con gái đầu của 8 anh chị em. Cha mẹ là ông Fracois và bà Louise Soubirous. Khi cô bé Bernadette lên 8 tuổi thì cha bị tai nạn mù mắt trái và bị thất nghiệp. Cả gia đình lâm vào cảnh sống cùng quẫn. Khi cô bé lên 11 tuổi thì cô bị bệnh thổ tả và bệnh suyễn trầm trọng. Cha cô bị bắt về tội trộm. Em trai cô tên Jean Marie đói quá nên chạy đến nhà thờ ăn cắp cây đèn cầy bằng sáp để ăn, chẳng may bị cha xứ bắt gặp và bị cha hăm bỏ tù. Vào đầu tháng 2 năm 1858, lúc gia đình cô sắp chết đói thì mẹ cô được một bà nhà giàu mướn làm đầy tớ (a servant). Do sự xếp đặt của bà chủ nhà giầu này, với sự đồng ý của cha mẹ, cô bé được chỉ dẫn đến hang đá Massabielle. Lúc này cô bé lên 14 tuổi, nhưng mù chữ vì chưa được đi học ngày nào.

Ngày 11 tháng 2 năm 1858, cô Bernadette cùng với một đứa em gái và một đứa bạn tên Jeanne Abadie đến hang đá Massabielle. Một mình cô đến quì trước cửa hang một lúc rồi cô nói cho em gái và đứa bạn biết là cô đã nhìn thấy "một cô gái đẹp trong ánh sáng mờ" (a beautiful girl appeared in the soft glow).

Sau khi trở về nhà, em của Bernadette kể chuyện cho mẹ, còn cô bạn Jeanne Abadie đi khắp thị trấn loan tin Bernadette đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra tại hang Massabielle. Chỉ hai tuần sau, cả thị trấn Lourdes qui tụ một đám đông tín đồ Công Giáo lên tới 8,000 người và họ rủ Bernadette cùng đi với họ đến hang đá Massabielle. Khi tới nơi, chỉ có một mình Bernadette nói là có nhìn thấy "một cô gái đẹp" còn tất cả mọi người khác đều không thấy gì cả! Mặc dầu vậy, tin đồn về chuyện Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức đã lan nhanh khắp nơi như một đám cháy rừng.

Ngày 25 tháng 3 năm 1858, vào lúc 5 giờ sáng, cha mẹ Bernadette đánh thức con gái dậy để cùng đi với một đám đông tín đồ đến hang đá Massabielle. Sau khi quì một mình trước hang đá một lúc, cô bé Bernadette dõng dạc tuyên bố với mọi người: Cô bé đã hỏi "cô gái đẹp" là ai, thì cô gái đẹp đó trả lời: "Ta là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" (I am the Immaculate Conception). Kể từ đó, hàng ngày có nhiều tín đồ Công Giáo đến hang đá Massbielle để lần chuỗi Mân Côi. Sau đó, có khoảng 50 người tự nhận là có nhìn thấy "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" ở trong hang, nhưng không một ai đưa ra bằng chứng nào cả!

Vì lý do những sinh hoạt bất thường của đám đông giáo dân ở Lourdes có thể gây nhiều chuyện bất an ninh, nên cảnh sát địa phương đã làm hàng rào cản không cho giáo dân kéo đến Massabielle mỗi ngày mỗi đông. Sự việc này được báo cáo lên hoàng đế Napoléon III. Nhà vua đã đích thân ra lệnh cho cảnh sát ở Lourdes phải rỡ bỏ tất cả các rào cản đó để cho các tín đồ được tự do đến viếng hang đá Massabielle.

Năm 1862, giám mục Laurance cai quản địa phận Tabres chính thức công bố thư luân lưu xác nhận "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" là Mẹ Chúa Trời đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous ngày 11 tháng 2 năm 1858 và những lần kế tiếp, tổng cộng 18 lần cả thảy. Tòa Giám Mục cho phép sự tôn thờ "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" tại hang đá Lộ Đức trong địa phận (The Virgin Mary Immaculate, Mother of God, really appeared to Bernadette Soubirous on 11 February 1858 and on subsequent days, eighteen times in all. We authorize the cult of our Lady of the Grotto of Lourdes in our diocese). Từ 1858, mọi phương tiện truyền thông của nước Pháp được vận dụng tối đa để quảng bá khắp nơi về "phép lạ" Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Song song với mọi nỗ lực tuyên truyền và quảng cáo, cựu bộ trưởng tài chánh Pháp là Achille Toul vận động với hãng xe lửa Southern Railway Company làm đường xe lửa nối liền thành phố Tarbes với Lourdes. Các công ty xây dựng đổ xô đến Lourdes xây cất rất nhiều khách sạn, nhà hàng và các phương tiện du lịch.

Năm 1906, hang đá Lộ Đức và nhà thờ lớn tại đây thuộc về tài sản quốc gia Pháp. Nhưng từ 1910, quyền sở hữu này lại được chuyển về cho thị trấn Lourdes. Kể từ năm 1990, thị trấn Lourdes tuy nhỏ nhưng có tới 400 khách sạn, hàng trăm tiệm ăn, hàng ngàn tiệm bán quà lưu niệm và một phi trường quốc tế. Hàng năm, số khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới kéo về hang đá Lộ Đức đã cung cấp cho số dân ở thị trấn nhỏ bé này một khoản tiền là 400 triệu đôla! (Looking for a Miracle, by Joe Nickell, Prometheus Book 1993 – page 152). Lộ Đức (Lourdes) đã trở thành một "con gà đẻ trứng vàng" của nền kinh tế Pháp.

Những tín đồ cuồng tín luôn luôn tung tin đồn rằng Đức Mẹ Lộ Đức đã chữa cho nhiều người khỏi bệnh khi họ đến nơi đây cầu khấn với Đức Mẹ. Tuy nhiên, họ đều không biết rằng: nhân vật chính của "phép lạ Lộ Đức" là cô bé Bernadette đã chết lúc 32 tuổi (16-4-1879) vì bệnh suyễn, bệnh sưng phổi và lao xương. Nếu Đức Mẹ có quyền năng làm phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, tại sao Đức Mẹ không chữa bệnh cho người có công nhất với Đức Mẹ trong việc tuyên xưng Người là "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" ? Một điều mỉa mai ai cũng thấy là ở Lộ Đức người ta treo đầy những chiếc nạng của những người què được chữa lành, nhưng tuyệt nhiên chưa từng có một người cụt tay, cụt chân nào được Đức Mẹ chữa lành cả !

Sau khi giáo hoàng Pio IX công bố tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" năm 1854, Vatican đã cấu kết với hoàng gia Pháp dựng lên màn kịch "Phép lạ Lộ Đức" với tin đồn Đức Mẹ đã đích thân hiện ra và tự xưng mình là "Đức Trinh Nữ vô nhiễm nguyên tội". Trò bịp này đã củng cố niềm tin của đại đa số tín đồ dân quê chất phác thời đó tại Âu Châu. Tuy nhiên, giới báo chí đã lớn tiếng tố cáo trước dư luận : Trong vụ "Phép lạ Lộ Đức", Vatican đã giúp Pháp có thêm một trung tâm hành hương với số lợi thu hàng năm không phải là nhỏ. Ngược lại, Pháp giúp cho Vatican có cơ hội củng cố niềm tin của tín đồ Công giáo đối với uy quyền của Tòa Thánh. Đây chẳng qua là chuyện cộng tác thực hiện một âm mưu nhằm phục vụ quyền lợi của cả hai bên mà thôi. Dư luận báo chí đã khiến cho tinh thần của nhiều giáo dân chao đảo và đưa họ đến chỗ nghi ngờ về thẩm quyền của giáo hoàng trong việc công bố các tín điều. Họ lập luận rằng: dù cho ở chức vụ đứng đầu giáo hội, giáo hoàng cũng vẫn chỉ là một con người, nghĩa là vẫn có thể có những sai lầm trong quyết định của mình. Vậy giáo hoàng không thể có quyền độc đoán buộc mọi tín đồ phải tin theo những quyết định riêng của giáo hoàng, dù cho quyết định riêng đó là một tín điều (dogma).

Trước áp lực của báo chí và dư luận bất lợi của giáo dân Âu Châu, giáo hoàng Pio IX đã phải triệu tập Công Đồng Vatican I vào năm 1869. Để cứu vãn sự sinh tồn của Tòa Thánh, phần đông các hồng y và giám mục tham dự Công Đồng I đã bỏ phiếu tán thành một tín điều mới, đó là tín điều "Giáo Hoàng không thể sai lầm" (The dogma of Papal Infallibility) buộc mọi tín đồ Công giáo phải tin tưởng vào huấn quyền tuyệt đối của Tòa Thánh và phải tin Giáo Hoàng là người duy nhất trên thế gian có thẩm quyền xác nhận hay phủ nhận chân lý. Người Mỹ chế diễu đức tin Công Giáo theo kiểu này là "Đức tin Shotgun" (Shotgun faith)!.

Sau khi Công Đồng Vatican I bế mạc, Tòa Thánh ra lệnh cho các giáo hội Công Giáo trên khắp thế giới phải xây thêm tại khuôn viên nhà thờ một "hang đá Lộ Đức" để nhắc nhở toàn thể giáo dân về hai tín điều là "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" và "Giáo Hoàng không thể sai lầm". Đó là tất cả ý nghĩa của cái gọi là "hang đá Lộ Đức"! Như chúng ta đã biết, tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" là một học thuyết của Augustine dựa trên huyền thoại bà Evà xúi chồng ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Đây là một chuyện hoàn toàn hoang đường về tội Tổ Tông đã bị các ngành khoa học hiện đại bác bỏ. Vậy, tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" đã trở thành vô nghĩa vì nguyên tội (tức tội tổ tông) không hề có, nên chẳng có một ai bị nhiễm cả, không riêng gì một mình bà Maria. Ngày nay, tín điều "Giáo Hoàng không thể sai lầm" thực sự chẳng thuyết phục được ai, nó chỉ càng làm cho mọi người thấy rõ hơn cái bản chất ngoan cố bất lương của Vatican mà thôi.

Tinh thần nô lệ đáng xấu hổ của Công Giáo Việt Nam

Bất cứ ai đã từng sống trên đất Mỹ cũng nhận thấy một sự khác biệt rất rõ rệt giữa Công Giáo Mỹ và Công Giáo Việt Nam là: không một giáo xứ Công Giáo Mỹ nào xây hang đá Lộ Đức trong khuôn viên nhà thờ thuộc giáo xứ họ. Trái lại, tại Việt Nam, các giáo xứ từ Bắc vào Nam đều xây bên cạnh nhà thờ một hang đá gọi là "hang đá Lộ Đức" ! Điều đó đủ cho thấy giáo hội Công giáo Việt Nam đã thi hành triệt để mọi mệnh lệnh của Vatican một cách hết sức mù quáng. Đối với Vatican, hàng giáo phẩm VN luôn luôn có thái độ khúm núm sợ sệt chẳng khác nào những tên nô lệ đối với chủ của chúng vậy. Mặc dầu cũng là những tín đồ Công giáo, nhưng Công giáo Mỹ tỏ ra độc lập và tự trọng đối với Vatican, chứ không đến nỗi lệ thuộc quá đáng như Công giáo VN. Sự khác biệt này đã được trình bày khá rõ rệt trong tác phẩm "How to Save the Catholic Church" của linh mục tiến sĩ Andrew Greenley và nữ tu sĩ tiến sĩ Mary Dukin, Viking Penguin xuất bản tại Canada 1984.

Hai tác giả đều là tu sĩ Công giáo viết : Trình độ trí thức của giáo dân Mỹ da trắng càng cao bao nhiêu thì giáo hội Công giáo Mỹ càng xuống dốc bấy nhiêu. Từ thập niên 1960, một nửa giáo hội Mỹ là di dân vừa nghèo vừa dốt (By 1960's, half of the American Catholics were poor and uneducated immigrants – page 11). Những cái gì xấu xa do người Mỹ trắng thải ra đều được chuyển qua đám di dân Công giáo da màu. Điển hình là vụ hang đá "Đức Mẹ Sầu Bi" ở Portland thuộc tiểu bang Oregon. Hang đá này đã bị Công giáo Mỹ phế bỏ thành một cái hang "khỉ ho cò gáy" từ nhiều thập niên qua. Vậy mà đám giáo dân Công giáo Việt Nam qua Mỹ sau 1975 đã khôi phục nó thành một trung tâm hành hương sầm uất thu hút hàng chục ngàn người (toàn là Việt!). Đó là việc mà hàng giáo phẩm Mỹ đã không làm nổi. Nhưng đám tu sĩ Công giáo Việt Nam đã làm được, không phải vì tu sĩ Công giáo Việt Nam tài giỏi mà vì số giáo dân Việt Nam mê muội tại hải ngoại còn đông quá!

Hai tác giả tu sĩ Mỹ còn cho biết : Hầu hết các mệnh lệnh của Vatican đều được hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ duyệt xét lại và sửa đổi trước khi phổ biến đến toàn thể giáo dân. Trong thực tế, giáo hội Công giáo Mỹ là một giáo hội tự trị (American Catholic Church became a Do-It-Yourself Catholicism – page 8).

Nay xin điểm qua tình hình Công giáo Á Châu, tờ Asia Week số ra ngày 19-12-1997 tường thuật như sau :

Sri-Lanka (Tích Lan) là một đảo quốc có 15 triệu dân, đại đa số theo đạo Phật, 8% (tức 1.2 triệu) theo đạo Công giáo. Linh mục Tissa Balasuriya (tốt nghiệp thần học và thụ phong linh mục tại Rome trong thập niên 1940) thuộc giáo hội Công giáo Sri-Lanka đã viết sách bằng Anh ngữ tựa đề "Mary and Human Liberation" chống lại Tòa Thánh vào thập niên 1990. Sách này được dịch sang tiếng Pháp để phổ biến tại Âu Châu dưới tựa đề "Marie ou la libération humaine". Linh mục Tissa đưa ra quan điểm của ông về "Đức Mẹ thật" là một phụ nữ thất học và nghèo khổ tại Do Thái. Đức Mẹ không thể đồng trinh vì có nhiều con và điều này đã được xác nhận trong Tân Ước. Tội tổ tông là một huyền thoại, nên các tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" là vô nghĩa. Tất cả các tín điều về Đức Mẹ đều là những sản phẩm của môn thần học kỳ quặc, không phù hợp với não trạng của người Á Châu. Muốn giải phóng tư tưởng người Công giáo thì cần phải bỏ các tín điều đó và bỏ luôn tín điều "Giáo hoàng không thể sai lầm".

Cuốn sách "thần học cách mạng" của linh mục Tissa đã bị Hồng Y Ratzinger (Giáo Hoàng Benedict hiện nay - chú thích của Mèo), bộ trưởng Bộ Giáo Lý của Vatican, hạch tội tỉ mỉ trong một bản phúc trình 55 trang đệ trình giáo hoàng John Paul II ngày 2-1-1997. Giáo hoàng đã đích thân tuyên phạt linh mục Tissa án phạt tuyệt thông và trục xuất ông ra khỏi giáo hội. Lý do được nêu lên là linh mục Tissa đã dám chống lại huấn quyền tuyệt đối của Tòa Thánh.

Trong tháng 10 – 1997, Bộ Giáo Lý Vatican cũng ra lệnh cho hội đồng Giám Mục Hàn Quốc cấm các linh mục thần học Kong Soel, Yangmo và Re Jemin không được viết sách báo chống Tòa Thánh. Hội đồng Giám Mục Nhật Bản lên tiếng chỉ trích Tòa Thánh là "chẳng hiều gì về văn hóa Á Châu" cả!

Các bản tin ngắn nói trên đủ cho ta thấy nhiều giáo hội Công giáo Á Châu không đến nỗi hèn vì họ vẫn có thái độ khẳng khái nói lên quan điểm của họ chống đối Vatican.

Là một người Việt Nam, chúng ta phải đau lòng công nhận một sự thật không thể chối cãi là Công Giáo Việt Nam có một tâm cảm nô lệ hết sức mù quáng đối với Tòa Thánh La Mã. Thậm chí có người đã mỉa mai nói rằng: "Dù cho Tòa Thánh đánh rắm, Công Giáo Việt Nam cũng khen thơm". Thật qủa đúng vậy. Cái tín điều nhảm nhí "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" chỉ là một cái rắm thối của giáo hoàng Pio IX năm 1854 đã được cả giáo hội Công Giáo Việt Nam vừa hít vừa rối rít khen thơm. Trước 1954, cái danh hiệu "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" đã được địa phận Bùi Chu tôn vinh làm Thánh Bổn Mạng của địa phận. Mới đây, vào đầu năm 2003, giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức là một giáo xứ lớn của Việt kiều tại thành phố Houston đã xây một "Hang Đá Lộ Đức" tại khuôn viên nhà thờ của giáo xứ với tổn phí 800,000 đôla!

Ngày nay, người Công giáo Việt Nam có đầu óc chẳng còn mấy ai tin vào chuyện Adam-Evà ăn trái cấm và do đó họ cũng nghi ngờ phần nào về cái tín điều "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" và tín điều "Giáo Hoàng không thể sai lầm". Nhưng vì truyền thống lâu đời của gia tộc họ vẫn tiếp tục duy trì thói quen là cầu nguyện trước hang đá Lộ Đức sau khi xem lễ xong tại nhà thờ. Họ thích đứng trước Hang Đá Lộ Đức để cầu nguyện riêng với Đức Mẹ mà họ yêu mến hơn yêu Chúa. Đối với họ, Thiên Chúa cao xa qúa nên rất khó gần gũi thân mật. Chỉ có Đức Mẹ là Mẹ dịu hiền và Mẹ có đầy quyền uy trước mặt Chúa. Đức Mẹ xin Chúa điều gì cũng được, nên họ thích cầu nguyện với Đức Mẹ để xin Mẹ ban cho họ mọi thứ mà họ muốn. Niềm tin đó còn khi người Công giáo VN chưa tỉnh ngộ thì các Hang Đá Lộ Đức vẫn tồn tại.

Nhưng thực tế hiển nhiên đã chứng tỏ rằng: màn kịch "hang đá Lộ Đức" là biểu tượng cho hai tín điều bịp bợm: "Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" và "Giáo Hoàng Không Thể Sai Lầm" do Pio IX và Napoléon III âm mưu dựng lên để lừa gạt đồng bào Công giáo Việt Nam đã trên một thế kỷ qua. Nay đã đến lúc đồng bào Công giáo Việt Nam nên bình tĩnh dùng lý trí xét lại những giáo điều mà Vatican đã áp đặt lên giáo hội Công giáo Việt Nam. Các hang đá Lộ Đức thật sự chỉ là một hình thức của nhiều công cụ tâm lý nhằm đầu độc và nô lệ hóa các tín đồ nhẹ dạ dễ tin. Xin đồng bào Công giáo Việt Nam đừng để những trò lừa bịp đó giam hãm qúy vị trong ngục tù tư tưởng của chính mình và đừng để hành động mù quáng tuân phục Vatican làm tổn hại đến quyền lợi của dân tộc.

Charlie Nguyễn

Tháng 7-2003

Tuesday, September 23, 2008

Trần Chung Ngọc - Phải Chăng Chiếc Khăn Quàng Cổ

ĐÃ ĐƯA ĐẾN GIẢI PHÁP CHO TÒA KHÂM SỨ

Cuồng tín, theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, là “tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh, và huênh hoang.” Đúng vậy, vì cuồng tín cho nên con người tưởng rằng mình đang ở trong một hội “thánh” dù qua những thực tế lịch sử, chúng ta không thấy một lý do nào để tin giáo hội công giáo hoàn vũ là một “hội thánh” cả.

“Hội thánh” chẳng qua là danh xưng tự phong của một tổ chức rất thế tục, buôn thần bán … thánh. Vì bị nhồi sọ và tin rằng mình đang ở trong một “hội thánh” cho nên các tín đồ của cái gọi là “hội thánh” này trở nên hợm hĩnh kiêu căng, và từ đây đến sự huênh hoang là điều tất nhiên. Cũng vì cuồng tín cho nên con người sẵn sàng chết cho một huyền thoại và tin rằng đó là “tử vì đạo”. Cũng vì cuồng tín mà con người có những hành động ngu si vô trí.

Trong vụ thắp nến cầu nguyện với búa, kìm, và xà beng ở Tòa Khâm Sứ trước đây, với sự hỗ trợ của cây thập ác và tượng bà Maria cắm đại vào những nơi không phải chỗ, nhưng cuối cùng phải dẹp bỏ vì có lệnh của một ông Hồng Y mũi lõ mắt xanh ngồi trong tiểu quốc Vatican, tôi đã viết thư cám ơn ông Tổng Kiệt. Nội dung bức thư thật ra không phải để cám ơn mà để cho ông TGM Ngô Quang Kiệt thấy rõ việc làm ngu si vô trí của ông ấy đã đưa đến những kết quả bất lợi cho Công giáo ở Việt Nam như thế nào:

1. Làm cho tuyệt đại đa số người dân Việt Nam thức tỉnh, bớt thụ động, cho nên đã nổi lên một làn sóng phản ứng của người Việt trên trên khắp thế giới, chống đối việc làm của tòa Tổng Giám Mục...

2. Làm cho nhân dân Việt Nam nhớ lại hay biết đến lịch sử về Chùa Báo Thiên, về nguồn gốc và những khía cạnh lịch sử pháp lý liên quan đến tòa khâm sứ: tòa khâm sứ nguyên là Chùa Báo Thiên của Phật Giáo đã bị thực dân Pháp toa rập với Công giáo Việt Nam cướp đi, phá hủy và xây nhà thờ trên đó.

3. Tạo cơ hội cho người dân Việt Nam để họ nhớ lại hay biết đến lịch sử của Công Giáo La Mã ở Việt Nam. Vì vụ việc tòa khâm sứ, lịch sử của Công Giáo La Mã ở Việt Nam từ ngày đầu đến ngày cuối sẽ được phổ biến rộng rãi trên khắp đất nước với những tài liệu bất khả phủ bác, và Giáo hội Công Giáo La Mã ở Việt Nam sẽ không có cách nào còn có thể ngăn chận việc truyền bá những sự thật này như trước nửa.

Nhưng có vẻ như mấy ông chăn chiên Việt Nam, với sự cuồng tín cố hữu, đã không chịu suy nghĩ về ba hệ quả này, nên lại đi thêm một bước vụng về, khích động giáo dân cầu nguyện đòi đất ở Thái Hà, và lập lại sách lược cũ: mang cây thập ác và tượng bà Maria cắm đại vào nơi không phải chỗ. Đem cả 400 đứa trẻ tiểu học đến cầu nguyện ở Thái Hà, và dựng lên chuyện Đức Mẹ hiển linh ở Thái Hà để kéo giáo dân nặng lòng mê tín từ các địa phương khác về Thái Hà cầu nguyện. Rõ ràng đây chẳng phải là vấn đề tự do tín ngưỡng, mà đúng là những mánh mưu lợi dụng những giáo dân ngu dốt và những đứa trẻ chưa biết gì để làm áp lực với Nhà Nước. Vì càng ngày, Công giáo ở Việt Nam càng tỏ ra là một thiểu số phi dân tộc qua những hành động càn rỡ, bất chấp luật pháp, cho nên một kết quả bi thảm đã đến với họ là điều không thể tránh được.

Câu hỏi đầu tiên của người dân Việt Nam phi công giáo trước các biến cố trên là, đất nào ở Tòa Khâm Sứ và đất nào ở Giáo xứ Thái Hà là đất của giáo dân? Ai bán cho giáo dân, ai ban phát cho giáo dân, và ai cướp đất cho giáo dân? Trả lời đúng những câu hỏi này thì thấy rõ ngay chuyện “đòi đất” là chuyện làm càn của đám người cuồng tín phi dân tộc, phi pháp luật. Vậy tại sao Nhà Nước phải “đối thoại”, có nghĩa là đầu hàng, trước đám dân ngu cuồng tín, nghe sự xách động của mấy ông chăn chiên nô lệ Vatican, đi làm loạn ở trên chính đất nước của mình bất kể lý lẽ, coi thường luật pháp. Trước những vụ việc này, Nhà Nước đã rất kiên nhẫn với hi vọng người công giáo Việt Nam hãy hiểu biết lý lẽ, chịu sống hòa hợp trong đại khối dân tộc, nhưng trước những thái độ, hành động cuồng tín ù lì của đám giáo dân, kéo dài một cách không có cơ chấm dứt, người dân Việt Nam đã có phản ứng, và chính quyền cũng đã có biện pháp đối phó.

Tôi không hiểu sao người công giáo Việt Nam lại có thể thiếu khôn ngoan và vụng về cuồng tín đến độ như vậy. Hồ sơ bán nước còn treo trên đầu giáo hội Công Giáo La Mã ở Việt Nam đó. Người Việt Nam, thấm nhuần văn hóa Việt Nam, đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại, đã muốn quên đi cái trang sử ô nhục làm tay sai cho thực dân Pháp, phản bội tổ quốc của công giáo. Người dân đã muốn quên đi quá khứ, sẵn sàng tha thứ cho những sai lầm tệ hại của công giáo, từ thời Pháp thuộc cho đến chế độ công giáo trị, gia đình trị của tổng thống công giáo Ngô Đình Diệm, hầu sống hòa hợp với nhau để xây dựng đất nước sau một cuộc chiến bi thảm. Nhưng công giáo thực sự không biết điều, đáng lẽ phải thành tâm sám hối, xưng tội với dân tộc, và sống khiêm nhường với tuyệt đại đa số đồng bào không theo đạo của mình, thì trái lại, càng ngày lại càng có những hành động phi dân tộc, phi luật pháp như trong các biến cố ở Tòa Khâm Sứ và Giáo xứ Thái Hà gần đây, khoan kể những chuyện lặt vặt ở một số nơi khác, khiến cho người dân càng ngày càng thấy rõ cái nền đạo lý “thiên-la đắc lộ” vẫn còn ăn sâu trong tâm khảm người công giáo Việt Nam..

Người công giáo có vẻ như quên rằng, thời đô hộ của thực dân Pháp cũng như thời gia đình trị, công giáo trị của Ngô Đình Diệm đã qua lâu rồi, và ngày nay, Vatican chỉ còn cái vỏ, không còn những quyền lực thế tục như trong thời Trung Cổ. Cho nên, họ cho rằng, với cái chiêu bài tự do tôn giáo, họ có thể làm bất cứ điều gì, vì đã có thế giới Âu Mỹ ủng hộ. Nhưng họ nhầm to, tự do tôn giáo không có nghĩa là tự do được làm loạn trong một đất nước mà đa số người dân không theo đạo, và thế giới ngày nay ít quan tâm đến vấn đề tôn giáo, nhất là tôn giáo độc thần, vì tôn giáo độc thần chỉ là cái chiêu bài để gặt hái những lợi ích thế tục cho giới giáo sĩ. Công giáo đang suy thoái ở khắp Âu Châu và với sự tiến bộ về kiến thức tôn giáo ngày nay, không có nước nào buồn lên tiếng ủng hộ những việc làm trái phép của người công giáo Việt Nam. Trong hiến pháp, quốc hội Âu Châu không hề nhắc đến Thiên Chúa. Mỹ là nước đa số theo Tin Lành, và Tin Lành thường xuyên nghi ngờ công giáo là phi dân tộc và phản dân tộc. Và Mỹ bao giờ cũng đặt quyền lợi của Mỹ lên trên hết. Với những chế độ tay sai Mỹ đã đầu tư vào nhiều như chế độ Ngô Đình Diệm và rồi Nguyễn Văn Thiệu mà Mỹ còn phủi tay, huống chi là đám người công giáo thiểu số ở Việt Nam. Cho nên, chắc chắn là nếu có, Mỹ cũng chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ, vì quyền lợi chính trị và kinh tế của Mỹ ở Việt Nam, chứ Mỹ không thể can thiệp vào những chuyện nội bộ của Việt Nam. Vả chăng, hầu như cả thế giới Tây phương đều biết rõ bản chất của người công giáo Việt Nam trong lịch sử Việt Nam là như thế nào. Đọc những sách xuất bản viết nghiêm túc về Việt Nam sau cuộc chiến chúng ta thấy rõ như vậy. Ngày nay, công giáo Việt Nam không còn có thể dựa vào bất cứ một thế lực nào để mà làm áp lực với Việt Nam, trong đó tuyệt đại đa số người dân không theo công giáo. Các bậc chăn chiên Việt Nam nghĩ rằng có thể dựa vào sự cuồng tín của đám con chiên thấp kém, bảo sao nghe vậy, khích động con chiên thắp nến cầu nguyện, và cho rằng trước thế giới ngày nay, những hành động gây loạn của công giáo sẽ khiến cho Nhà Nước phải nhượng bộ những đòi hỏi trịch thượng, phi lý của công giáo vì e rằng thế giới sẽ can thiệp. Nhưng đây là một sự tính toán hết sức sai lầm. Tại sao?

Giáo xứ Thái Hà đã có những hành động vi phạm pháp luật về đất đai, trật tự xây dựng, giao thông công cộng; Giáo xứ Thái Hà đã huy động giáo dân tự ý lấn chiếm đất xây dựng nhà không phép trên đất hiện do Công ty Điện lực Hà Nội và Công ty cổ phần vật tư vận tải xi măng quản lý thuộc địa bàn phường Quang Trung; Chưa xin phép Chính quyền đã tự ý đục tường, xây cổng ra ngách 49 ngõ 64 Nguyễn Lương Bằng thuộc địa phận phường Ô Chợ Dừa; đã để một số giáo dân phá đổ tường rào bảo vệ, phá hoại tài sản của Công ty cổ phần may Chiến Thắng vào đêm ngày 5/1/2008. Từ ngày 6/1/2008 cho đến nay, Giáo xứ Thái Hà tiếp tục để cho giáo dân, giáo sĩ đi treo hàng chục ảnh Đức Mẹ và Thánh Giá vào hàng rào bảo vệ của Công ty cổ phần may Chiến Thắng, tụ tập đông người cầu nguyện ngoài cơ sở thờ tự là những nhà thờ và tu viện, do đó gây mất trật tự giao thông công cộng.

Họ cho rằng ngoài đường phố là nơi họ có quyền tập họp để cầu nguyện Chúa hay Đức Mẹ của họ mà không biết rằng, Chúa hay Đức Mẹ của họ đã chết từ gần 2000 năm nay rồi, các bộ xương còn nằm trong những tiểu quách ở Jerusalem, cho nên chẳng bao giờ có thể can thiệp vào những chuyện ruồi bu như vậy, mà có muốn can thiệp cũng không được. Tại sao? Vì khi xưa, ở Việt Nam, năm 1954, Đức Mẹ đã phải bồng con chạy trước vào trong Nam, lũ lượt kéo theo là 700000 người, từ tổng giám mục, giám mục, linh mục xuống đến các con chiên. Vậy ngày nay họ cầu nguyện cái gì, cầu nguyện với ai, và có hi vọng gì là những lời cầu nguyện được đáp ứng? Họ cũng cho rằng những vật tượng mà họ tôn thờ như thánh giá hay tượng bà Mary, thì người dân Việt nào cũng phải tôn thờ, kính trọng những vật tượng đó như họ. Nhưng đây là sự đánh giá sai lầm vì họ không cập nhật hóa thời đại, và không biết đến lịch sử của nước nhà. Họ không hiểu rằng, đối với người không theo đạo, nhất là đối với giới hiểu biết, những thứ này không có bất cứ một giá trị nào. Bởi vậy:

Tin từ VietCatholic News, ngày thứ Năm, 18 tháng 9, 2008: Hai thanh niên lực lưỡng mang một xô dầu mỡ trộn lẫn mắm tôm hắt lên tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn… Hôm qua ngày 18/9, Trong khu vực linh địa, các công nhân của công ty may Chiến Thắng mang rác, thậm chí cả giấy vệ sinh, đổ xung quanh tượng đài Đức Mẹ Mân Côi.

Trước đây, Giáo hội đã dựng lên chuyện Đức Mẹ hiển linh ở Thái Hà để kéo giáo dân từ các nơi về cầu nguyện, nhưng thực chất là để tăng thêm áp lực đối với Nhà Nước. Nhưng trước những hành động mà người công giáo cho rằng đã xúc phạm đến Đức Mẹ của họ như trên thì phản ứng của Đức Mẹ Mân Côi ra sao. Làm sao có thể có phản ứng vì đó chẳng qua chỉ là một bức tượng như bất cứ bức tượng nào khác. Vậy thì giáo dân cứ tiếp tục cầu nguyện Đức Mẹ đi, và nếu tin lời ông Mai Thanh Lương ở Mỹ, người tự xưng là “Đức Cha”, rằng Đức Mẹ ở Fatima đã hứa, cứ kiên trì cầu nguyện thì CS sẽ sụp đổ, thì tôi có thể bảo đảm là CS sẽ sụp đổ. Nhưng hình như CS đã sụp đổ từ năm 1989 rồi cơ mà. Vậy CS của ông Mai Thanh Lương chỉ là một người rơm mà ông ta dựng lên để nuôi dưỡng sự mê tín của giáo dân mà thôi.

Nhưng vấn đề chính là, chỗ cầu nguyện là ở trong các nhà thờ chứ không phải là ở ngoài đường phố, làm cản trở lưu thông, và làm cho người dân không đi đạo khó chịu vì sự cuồng tín, mê tín của một thiểu số đồng bào của họ. Tại sao lại có hiện tượng coi thường tượng của bà Maria như trên? Nếu cây thập ác và bức tượng bà Maria để trong nhà thờ làm những biểu tượng sùng tín của giáo dân thì chẳng có ai buồn đụng đến làm gì. Nhưng khi mang chúng ra cắm đặt bừa bãi ở những nơi mà phần lớn không phải là những tín đồ công giáo thì đó là gây sự khó chịu và phiền nhiễu cho những người dân không đi đạo. Mặc dù cây thập ác đó, bức tượng đó, là những biểu tượng tôn thờ của giáo dân, nhưng ở những nơi không thích hợp, người ngoại đạo không có bổn phận phải tôn trọng những vật như vậy. Do đó, phản ứng nho nhỏ của một số người dân là “mang một xô dầu mỡ trộn lẫn mắm tôm hắt lên tượng đài Đức Mẹ” “các công nhân của công ty may Chiến Thắng mang rác, thậm chí cả giấy vệ sinh, đổ xung quanh tượng đài Đức Mẹ” Họ có quyền làm như vậy không? Về tình thì không nên, nhưng về lý thì chắc chắn là có! Vì đất của công ty may Chiến Thắng là đất của công ty họ đang làm việc. Trên mảnh đất này họ có quyền hắt dầu mỡ trộn lẫn mắm tôm và xả rác, thậm chí cả giấy vệ sinh, lên bất cứ đâu nếu họ muốn. Họ không có trách nhiệm gì về việc ai đó để bất cứ cái gì trên đất của họ mà không có phép. Vậy thì chính các giáo dân, bằng những hành động ngu si vô trí, đã làm nhục cây “thánh giá” và “Đức Mẹ” của mình. Mấy người chăn chiên có hiểu được như vậy không?

Nhưng phản ứng của người dân Việt Nam thực ra cũng nhẹ nhàng, chỉ có tính cách cảnh cáo mà thôi, vì dù sao, nền Văn Hóa Á Đông cũng là nền văn hóa trung dung, đạo đức. Họ chỉ muốn nói rằng: các ông đừng có tự tung tự tác làm càn, bất kể đến cảm nghĩ của người dân trong nước. Các ông chỉ là một thiểu số, và lịch sử đạo của các ông trên đất nước Việt Nam chẳng tốt đẹp gì, vậy thì các ông hãy nên biết điều một chút, và đừng làm thêm những gì khiến người dân thêm khinh ghét. Mà thật ra, những hành động của họ không thấm vào đâu đối với những hành động cực đoan của một số người dân Âu Mỹ chống Công giáo nếu chúng ta đọc vài tài liệu sau đây:

1. Năm 1989, nhiều ngàn người đã biểu tình chống đối “thánh lễ” mi-sa ở nhà thờ St. Patrick ở New York. 130 tín đồ biểu tình ngay trong nhà thờ, làm ngưng cuộc lễ và làm cho Hồng Y O’Connor phải bỏ bài giảng. O’Connor bị tố cáo là một kẻ “cuồng tín” và là một “tên sát nhân”. Những người biểu tình nằm trong nhà thờ, giả chết, và các bao cao su (để ngừa thai) được tung ra. Trong những khẩu hiệu mà những người biểu tình hô, có câu: “Các ông nói, đừng có làm tình” “Chúng tôi nói, đ...m...các ông” [You say, don’t fuck”; “We say, fuck you”] , và “Hãy ngừng giết chúng tôi! Hãy ngừng giết chúng tôi!. Chúng tôi không còn chịu đựng được nữa.” Nhiều biểu ngữ viết: “Hồng Y nói láo với giáo dân”. Một người biểu tình lấy một cái bánh thánh - đối với tín đồ đó là thân thể thực của Chúa Ki Tô – và ném xuống sàn nhà.

(In 1989, several thousand protesters led by the AIDS activist group ACT UP demonstrated during a mass at New York’s St Patrick Cathedral. 130 protesters demonstrated in the church itself, stopping mass and forcing Cardinal John O’Connor to abandon his sermon. O’Connor was loudly denounced as a “bigot” and a “murderer”. Demonstrators fell down in the aisles to simulate death, while condoms were thrown. Among the slogans chanted by protesters were “you say, don't fuck"; “We say, fuck you", and “Stop killing us! Stop killing us!. We’re not going to take it anymore.” Placards read “The Cardinal lies to his parishioners”. One protester grabbed a communion wafer – to a believer, literally the body of Christ – and threw it to the floor.) [Robert Goss, Jesus Acted Up, SanFrancisco; HarperSF, 1993)

Những người chống đối lệnh cấm giáo dân dùng thuốc ngừa thai đã chỉ trích Hồng Y O’Connor là “Từ bục giảng ở nhà thờ St.Patrick, O’Connor đã góp phần trong sự truyền bệnh AIDS đưa đến diệt chủng” (Cardinal O’Connor has contributed from the pulpit of St. Patrick’s Cathedral to the genocidal spread of AIDS)

2. Năm 2000, một nhóm 20 phụ nữ đã làm gián đoạn thánh lễ Mi-sa ở nhà thờ “Marie, Reine du Monde” ở Montréal, Canada. Họ xịt sơn lên nhà thờ câu “Tôn Giáo – Cái Bẫy Những Kẻ Ngu Đần” (Religion – A Trap of Fools), xịt sơn lên cả bàn thờ những câu phản đối quyền hành của Giáo hội.

Những người biểu tình treo trên tường và những bức tranh của nhà thờ những băng vệ sinh dơ của phái nữ, ném những bao cao su khắp thánh đường, và hô những khẩu hiệu ủng hộ phá thai. Họ cũng còn phá hủy hoặc cướp đi hàng trăm cuốn thánh ca hoặc sách kinh dùng trong lễ Mi-sa.

(Demonstrators stuck used sanitary napkins on pictures and walls, threw condoms around the sanctuary, and shouted pro-abortion slogans. They also destroyed or removed hundreds of hymn books or missals.) [Mark Steyn, American Spectator, May 2000]

3. “Năm 1996, sinh viên Christine Enedy ở Penn State University tổ chức một cuộc triển lãm 25 cái quần lót của phái nữ, ngay chỗ kín trên mỗi quần có khâu một “thánh giá”, tượng trưng cho 25 năm trinh tiết theo sự xui khiến của Công Giáo.”

(In 1996, student Christine Enedy of Penn State University mounted an exhibit featuring 25 pairs of panties, each with a cross sewn over the crotch, symbolizing her 25 years of Catholic induced chastity.)

4. Năm 1999, Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Brooklyn (New York) có cuộc triển lãm tranh với đề tài “Sensations: Young British Artists from the Saatchi Collection” trong đó có một bức tranh “The Holy Virgin Mary” của họa sĩ Christ Ofili, trang trí bởi những bụm phân voi và những hình cơ quan sinh dục của phái nữ cắt ra từ những báo khiêu dâm. Theo quan điểm của những tín đồ Công Giáo da trắng, bức tranh trên là một sự xúc phạm lớn đối với một hình tượng thờ phụng của Giáo dân. Lẽ dĩ nhiên, nhiều nhóm Công Giáo lên tiếng phản đối và họ có một đồng minh, Thị Trưởng New York, Rudolph Giuliani, một tín đồ Công Giáo. Giuliani nổi giận, phản đối, và định cắt quỹ của Viện Bảo Tàng trong năm tới. Nội vụ đưa ra tòa và Giuliani thua. “Tòa khẳng định sự quan trọng của quyền tự do trong nghệ thuật và ra lệnh cho Giuliani không được trừng phạt viện bảo tàng khi đó cũng như trong tương lai.” (The court asserted the importance of artistic freedom and ordered the city not to penalize the museum then or in the future.) [Philip Jenkins, The New Anti-Catholicism, Oxford University Press, 2003, p. 126]. Lý do?

Những họa sĩ Tây phương thường vẽ bà Mary mặc áo xanh da trời, màu tượng trưng cho thiên đường. Tương tự, trong một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt, người Phi Châu có thể dùng phân voi.”

(European artists traditionally painted the Virgin’s robe blue, because that is the color of the sky, and therefore of heaven; using a quite different cultural analogy, an African might use elephant dung.) [Philip Jenkins, Ibid.]

5. Năm 2001, Renee Cox cũng trưng bày ở Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Brooklyn một bức hình chụp cô ta trần truồng, đóng vai Chúa Giê-su trong bữa ăn chiều cuối cùng (The last Supper), hai bên có 12 tông đồ người da đen. Bức hình đề “Yo Mamma’s Last Supper.” Nhiều nhóm tín đồ Công giáo cũng như thị trưởng Rudolph Giuliani lên tiếng phản đối nhưng cũng chẳng đi đến đâu. Renee Cox tự biện: “Là một người Công Giáo, tôi có quyền chỉ trích Công Giáo” (As a Catholic I have the right to critique it). Ý tưởng sau bức hình là phản đối sự kỳ thị phái nữ của Công Giáo.

6. “Một cách biện giải tương tự khi nghệ sĩ Andres Serrano trưng bày bức hình “Ki Tô Đi Tiểu”, một bức hình chụp một cây thánh giá ngập trong một bình nước tiểu của chính Chúa Ki-Tô: Theo các diễn giải khác nhau thì bức hình này, hoặc là một sự tấn công thô bạo tôn giáo, hoặc là một biểu tượng của sự đau khổ và tình trạng bị làm nhục của Chúa Ki-Tô.”

(A similar defense was heard when artist Andres Serrano displayed his “Piss Christ”, a photograph of a crucifix submerged in a jar of his own urine. According to different interpretations the image represented either a gross attack on formal religion or a symbol of Christ’s suffering and humiliation (Philip Jenkins, Ibid., p. 120)

Người công giáo Việt Nam nghĩ sao về những hành động xúc phạm này, một số xẩy ra ngay trong khuôn viên nhà thờ, so với vài hành động không đáng kể ở những nơi không phải chỗ để cho cây thánh giá và tượng bà Mary hiện diện ở đó.

Nếu Đức Mẹ không thể có phản ứng trước vụ việc có hai người “mang một xô dầu mỡ trộn lẫn mắm tôm hắt lên tượng đài Đức Mẹ” “các công nhân của công ty may Chiến Thắng mang rác, thậm chí cả giấy vệ sinh, đổ xung quanh tượng đài Đức Mẹ”, thì nhiều nhất là bà ta được mấy bề trên bày đặt cho khóc hay chảy nước chảy dầu gì đó ở một nơi khác để khích động lòng mê tín của giáo dân.

Trước những hành động càn rỡ của giáo dân, kéo dài hết sức vô lối, những hành động mà không có quốc gia nào trên thế giới có thể chấp nhận, Nhà Nước đã có phản ứng, và đây là những phản ứng rất hợp với lòng dân, ít ra là với tuyệt đại đa số người dân không theo đạo. Nhà Nước tất nhiên phải có phản ứng tuy rằng đã kiên nhẫn dung dưỡng cho những việc làm trái phép quá lâu. Ngay ở trên nước Mỹ, không có một tổ chức hợp pháp nào có quyền hội họp cầu nguyện kéo dài trong nhiều ngày, khoan kể là nhiều tháng (trừ trường hợp các “tổ chức của bolsa xóm đạo”). Bất cứ cuộc hội họp biểu tình nào cũng phải xin phép chính quyền địa phương, và thường giới hạn trong một ngày. Ngày đó chính quyền có thể phái cảnh sát đến chặn đường, cô lập khu đã được chấp thuận cho hội họp biểu tình, hướng dẫn xe cộ đi sang hướng khác. Nhưng điều này chỉ có thể kéo dài trong một buổi, trong một ngày, chứ không thể kéo dài, tiếp tục ngăn trở giao thông, làm phiền các công dân khác, và tốn kém công quỹ khi sử dụng lực lượng an ninh ngoài thường lệ. Nhà Nước đã để tình trạng càn rỡ coi thường luật pháp của giáo dân quá lâu dù người dân quanh vùng đã có nhiều ta thán. Nhưng chậm còn hơn không, chúng tôi theo dõi tình hình trong nước, và rất hoan nghênh những biện pháp rất hợp lý và chính đáng của chính quyền.

Ở Thái Hà, chính quyền đã dùng hơi cay để giải tán cuộc hội họp trái phép của giáo dân. Đây là một biện pháp rất chính đáng để giữ cho xã hội khỏi bị xáo trộn vì những hành động vô lối của một số người bất chấp pháp luật. Khi xưa ở bên Mỹ chính quyền cũng dùng hơi cay để dẹp những cuộc biểu tình hội họp phản chiến vì không muốn đất nước bị loạn. Vậy hơi cay dùng công khai vì ai cũng thấy nó cay chứ chẳng phải là dùng “bí mật” như ông Lữ Giang viết bậy. Ông Lữ Giang cũng còn cho rằng Nhà Nước gài để cho giáo dân bạo động rồi đe dọa. Ai gài cho ai bạo động. Ở Tòa Khâm Sứ giáo dân cầu nguyện với búa, kìm, và xà beng. Cầu nguyện không phá được hàng rào sắt, không dựng được lều ngồi cầu nguyện ăn vạ. Ngày nay ở Thái Hà cũng vậy. Chính giáo dân đã tự cho mình cái quyền phá phách đất công, muốn cắm cây thập ác ở đâu thì cắm, muốn đặt tượng bà Maria ở đâu thì đặt, nhưng kết quả ra sao chúng ta đã rõ.

Trở lại vụ việc tòa Khâm sứ, chính quyền đã có giải pháp dứt khoát. Sáng ngày 19 tháng 9, 2008, chính quyền đã cô lập hóa Tòa Tổng Giám Mục và cho xe ủi đất thi công phần đất của tòa Khâm sứ để biến đổi nơi này thành một thư viện và một công viên cho dân chúng quanh vùng cùng được hưởng, theo đúng nguyện vọng của đa số người dân trong vùng. Đây là một quyết định rất sáng suốt và chính đáng, đáng được hoan nghênh. Nhà Nước không thể vì một thiểu số giáo dân cuồng tín mà bỏ rơi tuyệt đại đa số người dân không theo đạo. Mặt khác, qua những hành động vô lối, cuồng tín của giáo dân, chính quyền hẳn đã nhận rõ tính chất phi dân tộc và phản dân tộc của công giáo, bất kể Công giáo Việt Nam khoa trương kể công với đất nước như thế nào. Ở hải ngoại, giáo dân cuống lên, không biết làm gì hơn là đi mách bu, bu Mỹ, bu Pháp, bu Liên Hiệp Quốc. Nhưng tất cả sẽ đều không có hiệu quả.

Tôi hơi thắc mắc vì từ trước tới nay có vẻ như Nhà Nước đã rất kiên nhẫn, có thể nói hầu như là nhượng bộ Công giáo khá nhiều, thay vì phải cương quyết đưa ra giải pháp từ lâu. Vậy tại sao đột nhiên, mà có lẽ cũng không phải là đột nhiên mà là sau một cuộc tính toán kỹ càng, lại đưa ra một biện pháp không ai ngờ như vậy. Suy nghĩ kỹ thì nguyên nhân có lẽ là vì cái khăn quàng trên cổ của Giáo hoàng Benedict XVI ở Úc, trong kỳ đại hội giới trẻ Công giáo thế giới. Đây chỉ là những ý nghĩ cá nhân, rất có thể sai, nhưng dù sao tôi cũng nói lên để cho quý độc giả phán xét.

dân Chúa ở Bolsa trong những cuộc biểu tình chống ... đủ thứỞ hải ngoại ai cũng biết, lá cờ vảng ba sọc đỏ là biểu tượng “thói đời đối kháng” của những người Công giáo muốn đi ngược lại lịch sử, chủ trương triệt hạ cờ đỏ ở trong nước để mang cờ vàng về thay thế. Khi một giáo dân dâng cho ông Benedict XVI lá cờ vàng thì tất nhiên ông ta phải nhận, và thường ở địa vị ông thì ông không đích thân đưa tay ra nhận, mà có thể là một phụ tá hay thư ký gì đó nhận và để ra một chỗ. Nhưng khi ông Benedict XVI quàng chiếc khăn cờ vàng lên cổ thì ông ta đã có một thái độ chính trị dứt khoát, toa rập với chủ trương chống Cộng cho Chúa của đám con chiên của ông ta. Nghĩa là ông ta chính thức ủng hộ đám con chiên ở hải ngoại và ra mặt chống đối Nhà Nước Việt Nam hiện nay. Việt Nam không thể không biết như vậy. Và do đó, những biện pháp chính quyền đưa ra để giải quyết vụ tòa Khâm sứ và Thái Hà là một thái độ khẳng định chủ quyền của đất nước, không cho phép những con chiên của Benedict XVI ở Việt Nam làm loạn quấy nhiễu xã hội.

Tôi cũng nghĩ, từ đây việc thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Vatican chắc cũng còn lâu mới đi đến sự thỏa thuận. Vì thái độ của Benedict XVI rõ ràng là Vatican không thể thỏa hiệp với chính quyền hiện nay ở Việt Nam. Việt Nam, trước những hành động càn rỡ coi thường luật pháp của giáo dân mà Vatican không hề lên tiếng khuyên răn dù Vatican có khả năng như vậy, thí dụ như sự can thiệp của Hồng Y Bertone trong vụ tòa Khâm sứ, chắc cũng đã hiểu ý đồ chính trị của Vatican khi muốn có quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đó là đẩy mạnh sự cuồng tín của giáo dân song song với kế hoạch cải đạo Á Châu để kiếm lợi trong miền đất mới vì miền đất cũ, Âu Châu, đang dần dần đi vào thời kỳ hậu-Ki Tô. Hơn nữa, Vatican chỉ là một tiểu quốc nấp sau bộ mặt tôn giáo, không có ảnh hưởng kinh tế đối với Việt Nam. Nhưng chính cái bộ mặt tôn giáo của Vatican mới là điều đáng sợ. Việt Nam nên nhìn kỹ vào những hành động của giáo dân Việt Nam gần đây, lấy đó làm kinh nghiệm và hãy nghĩ đến tương lai xa của đất nước. Lịch sử cận đại với Ngô Đình Diệm ở Việt Nam, Marcos ở Phi Luật Tân, Pinochet ở Chile, Franco ở Tây Ban Nha, Palevich ở Croatia là những kinh nghiệm rõ ràng nhất về bản chất của Công giáo một khi Công giáo nắm được quyền hành.

Nếu Vatican là một tôn giáo thì Việt Nam không có lý do nào để thiết lập quan hệ ngoại giao với một tôn giáo. Nếu Vatican là một quốc gia thì có nhiều vấn đề cần phải giải quyết trước khi thiết lập bang giao.

Thứ nhất, Vatican phải chính thức lên tiếng xin lỗi dân tộc Việt Nam về chính sách truyền đạo của các thừa sai Công giáo trước đây, dẫn đường và đồng hành với thực dân Pháp để đưa Việt Nam vào vòng đô hộ của Pháp.

Thứ nhì, giáo hội công giáo Việt Nam phải trả lại những tài sản đất đai đã cưỡng chiếm của người dân Việt Nam như nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, nhà thờ La Vang, nhà thờ lớn ở Hà Nội v..v… Phật Giáo Quảng Trị đã có văn thư xin nhà nước can thiệp để lấy lại miền đất La Vang, nhưng cho tới nay vẫn chưa được giải quyết. Lấy lại để cho Nhà Nước sử dụng công ích cho người dân chứ không nhất thiết để xây Chùa trên đó.

Thứ ba, giáo hội công giáo Việt Nam cũng phải chính thức xin lỗi nhân dân Việt Nam vì cái tội đã góp phần quyết định để cho thực dân Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam, như chính Giám mục Puginier đã thú nhận.

Và đó mới chỉ là ba điều tối thiểu …

Trần Chung Ngọc