40. Thomas Henry Huxley (1825-1895), Khoa học gia Anh: * Tín điều về sự không thể sai lầm của Thánh kinh cũng chẳng hiển nhiên hơn tín điều về không sự sai lầm của các giáo hoàng (The dogma of infallibility of the Bible is no more self-evident than is that of the infallibility of the popes.) * Từ một nô lệ của chế độ giáo hoàng, người trí thức đã trở thành thân trâu ngựa của Thánh kinh (có nghĩa là bỏ Ca-Tô sang Tin lành. TCN) From being a slave of the papacy, the intellect was to become the serf of the Bible.) * Hệ thống giáo sĩ là kẻ thù sống chết của khoa học. Thuyết tiến hóa loại bỏ thuyết sáng tạo và mọi sự can thiệp của Thiên chúa (The ecclesiastical system is the deadly enemy of science. Evolution excludes creation and all other kinds of supernatural interventions.) * Hoài nghi là bổn phận cao nhất và đức tin mù quáng là tội không thể tha thứ được (Skepticism is the highest duty and blind faith the one unpardonable sin.)
41. Leo Tolstoy (1828-1910) văn hào Nga: * Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội (Ca-Tô) là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành (I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.) * Đúng vậy, tôi không chấp nhận một thuyết không hiểu được là thuyết Ba Ngôi, và huyền thoại về sự sa ngã của con người, vì chúng vô lý trong thời đại của chúng ta. (It is true, I deny an incomprehensible Trinity, and the fable regarding the fall of man, which is absurd in our day.) * Đúng vậy, tôi không chấp nhận cái chuyện có tính cách xúc phạm về một Thiên Chúa sinh ra từ một trinh nữ đề chuộc tội cho nhân loại (It is true, I deny the sacrilegious story of a God born of a virgin to redeem the race.)
42. Robert G. Ingersoll (1833-1899), Đại Tá, Luật Sư, Nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của Mỹ: * Tôi muốn gì cho ngày giáng sinh? Tôi bắt giáo hoàng phải vứt đi cái mũ ba tầng của ông ta, cởi bỏ bộ quần áo thiêng liêng của ông ta, và thừa nhận rằng ông ta không hành động cho Thiên Chúa - không phải là không thể sai lầm - mà chỉ là một người Ý thông thường. Tôi bắt tất cả những hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục thừa nhận rằng họ chẳng biết gì về thần học, về thiên đường hay hỏa ngục, về số phận tương lai của nhân loại, về quỷ hay hồn ma, về các thiên chúa hay thiên thần. Tôi muốn toàn thể thế giới không còn bất công, không còn mê tín (What I want for Christmas? I would have the pope throw away his tiara, take off his sacred vestments, and admit that he is not acting for god - is not infallible - but is just an ordinary Italian. I would have all the cardinals, archbishops, bishops, priests admit that they know nothing about theology, nothing about hell or heaven, nothing about the destiny of the human race, nothing about devils and ghosts, gods or angels. I would like to see the whole world free - free from injustice - free from superstition). * Một thầy giáo giỏi có giá trị hơn 1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.) * Trong nhiều thế kỷ, cây thập giá và lưỡi gươm là đồng minh của nhau. Cùng với nhau, chúng tấn công nhân quyền. Chúng chống đỡ cho nhau (For many centuries, the sword and the cross were allies. Together they attacked the rights of man. They defended each other.) * Nếu Ki Tô giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thiên chúa của Ki Tô giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô giáo hứa hẹn cho các tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki Tô Giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ. Nhưng Ki Tô giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn hiểm độc, không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thần của tôn giáo này không chỉ dốt nát mà còn ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (tín đồ hay không. TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thiên chúa và sẽ bị vĩnh viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo. (If Christianity were only stupid and unscientific, if its god were ignorant and kind, if it promised eternal joy to believers, and if the believers practiced the forgiveness they teach, for one I should let the faith alone. But there is another side to Christianity. It is not only stupid, but malicious. It is not only unscientific, but it is heartless. Its god is not only ignorant, but infinitely cruel. It not only promises the faithful an eternal reward, but declares that nearly all of the children of men, imprisoned in the dungeons of god will suffer eternal pain. This is the savagery of Christianity.)
43. Mark Twain (1835-1910), Văn hào Mỹ: * Đức tin là tin vào cái mà chúng ta biết nó không như vậy (Faith is believing what you know ain’t so). * Không phải là những phần trong thánh kinh mà tôi không hiểu làm tôi bực mình, mà là những phần mà tôi hiểu (It ain’t those parts of the Bible that I can’t understand that bother me, it is the parts that I do understand.)
44. John Burroughs (1837-1921), Văn hào Mỹ: * Khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của nền văn minh Tây phương trong 100 năm nhiều hơn là sự đóng góp của Ki Tô Giáo trong 1800 năm. (Science has done more for the development of Western civilization in 100 years than Christianity in 1800 years.) * Nền văn minh của chúng ta không được xây dựng trên Ki Tô Giáo mà là trên lý trí và khoa học (Our civilization is not founded upon Christianity; it is founded upon reason and science.) * Những người hoài nghi và những người không tin (Ki Tô giáo) không bao giờ có thể giết nhau như những tín đồ Ki Tô đã giết nhau (Skeptics and disbelievers could never slaughter each other as the Christians have.)
45. Friedrich Nietzche (1844-1900), Triết gia Đức: * Thượng đế đã chết (Có đâu để mà chết? TCN) God is dead. * Chúng ta không nên đi đến nhà thờ nếu chúng ta muốn hít thở không khí trong lành (One should not go to church if one wants to breathe pure air.)
46. Pierre Laplace (1749-1827), Khoa học gia Pháp: * Kính thiên văn đã quét hết vòm trời mà không thấy Thiên Chúa ở đâu. (The telescope sweeps the skies without finding god.)
47. Sir James Paget (1814-1899), Y sĩ Anh: * Nơi công cộng cũng như trong tư gia, tôi không biết một cuốn sách nào mà lại là nguồn gốc của cách xử sự hung ác và tàn bạo như là cuốn thánh kinh (I know of no book which has been a source of brutality and sadistic conduct, both public and private, that can compare with the Bible.)
48. Thomas Carlyle (1795-1881), Văn hào Anh: * Thiên chúa chẳng làm gì cả. Một người có giáo dục, lương thiện, không thể nào còn tin vào Ki-Tô giáo của lịch sử. (God does nothing. It is not possible that educated, honest men can even profess much longer to belief in historical Christianity.)
49. Alexandre Dumas (1802-1870), Văn hào Pháp: * Tín đồ Ca-Tô và Tin Lành, trong khi thiêu sống và giết lẫn nhau, có thể cộng tác để nô lệ hóa những ngưới anh em da đen của họ (Catholics and Protestants, while engaging in burning and murdering each other, could cooperate in enslaving their black brethen.)
50. Oliver Wendell Holmes, Sr. (1809-1894), Học giả Mỹ: * Người mà luôn luôn lo lắng rằng linh hồn mình sẽ bị đầy đọa thường là có một linh hồn không đáng gì cả (The man who is always worrying about whether or not his souls would be damned generally has a soul that isn’t worth a damn.) * Sự thật là cả hệ thống tín ngưỡng dựa trên chuyện sa ngã của con người đó đã dần biến mất đi trong đầu óc hiểu biết của con người đã được khai sáng (The truth is that the whole system of beliefs which comes in with the story of the fall of man is gently falling out of enlightened human intelligence.)
51. Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: * Khi anh bảo tôi rằng Thiên chúa của anh đã tạo ra anh theo hình ảnh của ông ấy, tôi trả lời rằng hắn ta phải thật là xấu xa (When you tell me that your deity made you in his own image, I reply that he must have been very ugly.) * Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.) .
52. Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: * Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên ông linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.) * Phải chăng khoa học đã thoái lui? Không phải! Chính Ca-Tô giáo đã luôn luôn phải thoái lui trước khoa học, và sẽ còn bị bắt buộc phải thoái lui (Has science ever retreated? No! It is Catholicism which has always retreated before her, and will always be forced to retreat.)
53. Mikhail A. Bakunin (1814-1876), Văn hào Nga: * Ki Tô giáo là sự từ bỏ hoàn toàn lẽ thường và lý trí (Christianity is the complete negation of common sense and sound reason.) * Thần học là khoa học về sự nói láo của thần thánh (Theology is the science of the divine lie.)
54. Ludwig Feuerbach (1804-1872), Triết gia Đức: * Bất cứ khi nào mà đạo đức được đặt căn bản trên thần học, quyền của con người tuỳ thuộc vào thần quyền, thì những sự vô đạo đức, bất công, ô nhục nhất có thể được biện minh và thiết lập (Whenever morality is based on theology, whenever right is made dependent on divine authority, the most immoral, unjust, infamous things can be justified and established.)
55. William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: * Hầu hết Âu châu, trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hoặc với sự hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền trong giới giáo sĩ (Almost all Europe, for many centuries, was inundated with blood, which was shed at the direct instigation or with the full approval of the ecclesiastical authorities). * Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Ca-Tô hay Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
56. August Bebel (1840-1913), Nhà xã hội Đức: * Ki Tô giáo là kẻ thù của tự do và văn minh. Nó buộc nhân loại trong xiềng xích. (Christianity is the enemy of liberty and of civilization. It has kept mankind in chains.)
57. Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Ca-Tô, chỉ còn lại Vatican ngày nay): * Vatican là con dao găm đâm vào tim nước Ý. (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.) * Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.) * Giáo hội Ca-Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do (The Catholic Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.)
58. Elbert Hubbard (1856-1915), Văn hào Mỹ: * Thiên đường: Chỗ giải trí-nghĩ dưỡng trong trí tưởng tượng của người Ki-tô (Heaven: The Coney Island of the Christian imagination.) (Coney Island là một địa điểm nghỉ ngơi giải trí nổi tiếng ở New York)* Thiên chúa: John Doe (1 tên đặt cho một nhân vật mà không ai biết là ai) của triết lý và tôn giáo (God: The John Doe of philisophy and religion.) * Thần học là một sự toan tính giải thích một chủ đề bởi những người không hiểu về nó (Theology is an attempt to explain a subject by men who do not understand it).
59. Sigmund Freud (1856-1939), Nhà Phân tâm Áo: * Tôn giáo có thể so sánh được với chứng loạn thần kinh của trẻ con (Religion is comparable to a childhood neurosis.) * Giáo hội Ca-Tô cho đến nay vẫn là là đối thủ cứng rắn của mọi sự tự do tư tưởng (The Catholic Church so far has been the implacable enemy of all freedom of thought.)
60. George Bernard Shaw (1856-1950), Nhà viết kịch Anh: * Không phải là không tin thì nguy hiểm cho xã hội của chúng ta, mà chính là sự tin (It is not disbelief that is dangerous to our society, it is belief.) * Đối với tín đồ Ca-Tô, chỉ có hai quốc gia, thiên đường và hỏa ngục; chỉ có hai trạng thái của con người, cứu rỗi hay bị đày đọa (For the Catholic, there are but two countries, heaven and hell; but two conditions of men, salvation and damnation.)
61. George Santayana (1863-1952), Triết gia Mỹ: * Đối với Shakespeare, về vấn đề tôn giáo, sự chọn lựa nằm ở hoặc Ki Tô giáo hoặc không tin gì. Ông ta đã chọn không tin gì (For Shakespeare, in the matter of religion, the choice lay between Christianity and nothing. He chose nothing.) * Ki Tô giáo đàn áp tôn giáo, tra tấn và thiêu sống con người. Như một con chó săn, tôn giáo này đánh hơi và truy lùng dị giáo. Nó khích động chiến tranh, và nuôi dưỡng sự thù ghét mãnh liệt và tham vọng. Tôn giáo này thánh hóa sự tận diệt và sự chuyên chế (Christianity persecuted, tortured, and burned. Like a hound it tracked the very scent of heresy. It kindles wars, and nursed furious hatred and ambitions. It sanctified extermination and tyranny..)
62. Bertrand Russell (1872-1970), Triết gia, Nhà Toán học Anh, tác giả cuốn Why I Am Not A Christian: * Quan điểm của tôi về tôn giáo giống như quan điểm của Lucretius. Tôi coi nó như là một bệnh chứng xuất phát từ sự sợ hãi và là nguồn gốc của sự khổ sở không thể kể được của loài người (My own view on religion is that of Lucretius. I regard it as a disease born of fear and as a source of untold misery to the human race.) * Nếu tôi nhớ không lầm, không có một lời nào trong các Phúc Âm ca tụng sự hiểu biết (So far as I can remember, there is not one word in the gospels in praise of intelligence.) * Sự đàn áp được sử dụng trong thần học chứ không ở trong số học (Persecution is used in theology, not in arithmetic.)
63. Albert Einstein (1879-1955), Khoa học Gia Do Thái, Thuyết Tương Đối: * Tôi không thể quan niệm một Thiên Chúa thưởng phạt tạo vật của chính mình (I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures)
64. H. L. Mencken (1880-1956), Văn hào Mỹ: * Nói một cách đại cương, tôi tin rằng tôn giáo là một sự nguyền rủa đối với nhân loại (I believe that religion, generally speaking, has been a curse to mankind.) * Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) * Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng những lời không đáng để biết (Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.) * Tổng giám mục: một chức sắc Ki Tô cao chức hơn chức của Chúa Ki Tô (Archbishop: A Christian ecclesiastic of a rank superior to that attained by Christ.)
65. Alfred North Whitehead (1861-1947), Toán gia và Triết gia Mỹ: * Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại (I consider Christian theology to be one of the great disasters of the human race)..
66. Theodore Dreiser (1871-1945), Văn hào Mỹ: * Mọi hình thức của tôn giáo tín điều phải dẹp bỏ. Thế giới đã tồn tại mà không cần đến nó trong quá khứ và có thể cũng như vậy trong tương lai (All forms of dogmatic religion should go. The world did without them in the past and can do so again.)
67. Arthur Koestler (1905-1983), Triết gia Anh: * Tại Jerusalem, cái bộ mặt giận dữ của thần Gia-vê bao trùm những phiến đá nóng, những phiến đá đã chứng kiến những cuộc thánh sát, cưỡng hiếp, và cướp bóc nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Dân cư ở đây bị đầu độc bởi tôn giáo (In Jerusalem..the angry face of Yahweh is brooding over the hot rocks which have seen more holy murder, rape and plunder than any other place on earth. Its inhabitants are poisoned by religion.)
68. Edgar Lee Masters (1869-1950), Thi sĩ Mỹ: * Nhiều cuốn sách đã được viết ra để chứng tỏ Ki Tô giáo đã làm suy yếu thế giới, rằng nó đã gạt ra ngoài sự khai sáng và sự hiểu biết của Hellas để nhường chỗ cho một giáo lý mê tín và ngu xuẩn (Many books have been written to show that Christianity has emasculated the world, that it shoved aside the enlightenment and wisdom of Hellas for a doctrine of superstition and ignorance.)
69. George Moore (1852-1933), Tiểu thuyết gia Ái Nhĩ Lan: * Thiên đường có thể là cho những người thế tục, nhưng thế giới này chắc chắn là cho các linh mục (Heaven may be for the laity, but this world is certainly for the clergy.)
70. H. G. Wells (1866-1946), Tiểu thuyết gia Anh: * Cái đồ xấu ác nhất trong thế giới ngày nay là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most evil thing in the world today is the Roman Catholic Church.)
71. Culbert Olson, Thống đốc bang California, 1938-1943: * Tôi không hiểu làm sao mà người nào đọc thánh kinh mà lại có thể tin rằng đó là lời của Thiên chúa, hoặc tin đó không phải là chuyện man rợ của một dân tộc man rợ (I don’t see how anybody can read the Bible and believe it’s the word of God, or believe that it is anything but a barbarous story of a barbaric people.)
72. Preserved Smith (1880-1941), Sử gia Mỹ: * Không còn nghi ngờ gì nữa, cuốn thánh kinh là khối cản trở trên con đường tiến bộ, khoa học, xã hội và ngay cả đạo đức. Nó được viện dẫn để chống lại Copernicus (Thuyết trái đất quay xung quanh mặt trời. TCN) cũng như là chống Darwin (Thuyết Tiến Hóa. TCN) (There can be no doubt that the Bible became a stumbling -block in the path of progress, scientific, social and even moral. It was quoted against Copernicus as it was against Darwin.)
73. Isaac Asimov (1920-1992), Khoa học gia Mỹ: * Đối với tôi, Thiên Chúa có lẽ là một sản phẩm tùy tiện của tâm trí con người; Tôi chắc chắn không tin vào những huyền thoại, vào thiên đường và hỏa ngục, vào Thượng Đế và thiên thần, vào Sa-Tăng và quỉ... (It seems to me that God is a convenient invention of the human mind; I certainly don’t believe in the mythologies of our society, in heaven and hell, in God and angels, in Satan and demons..)
74. Steve Allen (1921 - ), Mỹ, tác giả 43 cuốn sách đủ loại: * Rất hiếm có một trang sách nào trong cuốn thánh kinh mà trong đó một người có đầu óc cởi mở không nhận thấy một sự mâu thuẫn, một chuyện lịch sử bất khả hữu, một sai lầm hiển nhiên, một sự kiện lịch sử không thể nào xảy ra (There is scarcely a page of the Bible on which an open mind does not perceive a contradiction, an unlikely history, an obvious error, an historical impossibility..); * Một người vô thần không ghét Thiên chúa, hắn chỉ không thể tin được là một Thiên chúa có thể hiện hữu. (An atheist does not hate God; he simply is one who is unable to believce that a God exist); * Cuốn thánh kinh đã được dùng để khuyến khích niềm tin vào sự mê tín thô thiển nhất và làm ngăn cản sự truyền bá những chân lý khoa học (The Bible has been used to encourage belief in the grossest superstition and to discourage the free teaching of scientific truths); * Chỉ sau khi tôi đọc cuốn thánh kinh từ đầu đến cuối tôi mới nhận ra rằng Thiên chúa được miêu tả trong đó thật sự là một bạo chúa thích trả thù, ác như quỷ, hơn xa sự khát máu và sự dã man điên rồ của sự tàn phá của những con người như Hitler, Stalin, Pol Pot, hoặc bất cứ kẻ sát nhân tập thể nào trong lịch sử cổ xưa hoặc hiện đại (It was only when I finally undertook to read the Bible through from beginning to end that I perceived that its depiction of the Lord God was actually that of a monstrous, vengeful tyrant, far exceeding in bloodthirstiness and insane savagery the depredations of Hitler, Stalin, Pol Pot, or any mass murderer of ancient or modern history.)
75. Carl Sagan, Khoa học gia rất nổi tiếng ở Mỹ: * Nếu các bạn muốn cứu con mình khỏi bị bệnh bại liệt, bạn có thể cầu Chúa hoặc mang nó đi chích ngừa.. Hãy chọn khoa học (If you want to save your child from polio, you can pray or you can inoculate.. Choose science)
76. Học giả LLoyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, trg. 455:
"Và ngày nay (Thời đại Trung Cổ. TCN) Ki Tô Giáo đã thiết lập vững chắc, chúng ta thấy gì? Thiên đường hạ giới? Trái lại, một sự suy thoái đạo đức và trí thức chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Theo Lecky thì "Hai thế kỷ sau thời Constantine là những thời kỳ mà các Cha Cố tượng trưng cho các thói xấu mang tai tiếng toàn diện." Và hai thế kỷ tiếp theo cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Giám mục Gregory ở thành Tours viết một bài tường thuật về những Cha Cố này và đó là một hình ảnh đen tối nhất của suốt dòng lịch sử. Về thế kỷ thứ 5, một linh mục sử gia, Salvianus, viết như sau: "Trừ một số rất nhỏ, còn toàn bộ Ki Tô giáo có gì khác hơn là một vũng lầy tội lỗi? Có bao nhiêu người trong giáo hội không phải là những kẻ say sưa hay loạn dâm, hay gian dâm, hay cờ bạc, hay ăn cướp, hay sát nhân - hay cùng lúc là tất cả?" Và chúng ta được bảo rằng Ki Tô Giáo nâng cao giống người, diệt trừ tội lỗi của người theo đa thần giáo và mở đườìng cho nền văn minh thực sự. Đây cũng là học thuật của Ca Tô Giáo."
(And now that Christianity is firmly established, what do we find? "The kingdom of heaven on earth?" On the contrary, a moral and intellectual degradation unparalleled in human history. According to Lecky, "The two centuries after Constantine are uniformly represented by the Fathers as periods of general and scandalous vice." And the following two were no better. Bishop Gregory of Tours wrote an account of them and it is one of the darkest pictures in all history. As for the fifth century, Salvianus, a priestly historian, had this to say: " Besides a very few who avoid evil, what is almost the whole body of Christians but a sink of iniquity? How many in the church will you find that are not drunkards or adulterers, or fornicators, or gamblers, or robbers, or murderers - or all together?" And we are told Christianity uplifted the race, rid the world of pagan sin and paved the way for true civilization. This too is Catholic scholarship)
77. Học Giả Ki-tô Jack Bays, The Gospel of Love, trg. 7:
"Đúng vậy, đó là những gì (thánh chiến, tòa án xử dị giáo, các cuộc tra tấn dã man v..v... TCN) mà giáo hội đã mang tới cho thế giới thay vì hòa bình và tình huynh đệ trong phúc âm của tình thương. Nó đã làm cho Ki Tô Giáo thành tôn giáo đẫm máu nhất đã làm đen tối mặt trái đất. Trong trăm năm qua, 90% các cuộc chiến tranh là những cuộc chiến tranh Ki Tô trong đó người Ki Tô giết người Ki Tô hay giết những người khác Ki Tô. Tất cả những vũ khí chiến tranh khủng khiếp, bom nguyên tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu v...v... đều là những phát minh của người Ki Tô, được chế tạo và dùng bởi những quốc gia Ki Tô. Trong cuộc chiến tranh nào cũng có những thầy giảng đạo, linh mục và mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và khuyến khích sự giết chóc cũng như là tên già độc ác Jehovah (Chúa Cha) đã làm đối với dân Do Thái, khi chúng tàn sát dân của vùng đất hứa, cướp bóc nhà cửa, của cải và cả con gái của họ."
(Yes, this is what the church brought upon the world instead of the peace and brotherhood of the gospel of love. It has made Christianity the bloodiest religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians or someone else. All the the hellish war machines; atomic bombs, poison gas, war planes, etc.., have been Christian inventions, made and used by Christian nations. In every war there have been preachers, priests and rabbis on each side praying and urging on the slaughter just as old brutal Jehovah did for the Israleites, while they massacreing the people of the promised land, to take their homes, their stock and their daughters.)
78. Chuyên Gia về Ca-tô Giáo Rô-ma Avro Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom, trg. 341-365:
" Ki Tô Giáo không bao giờ cùng nghĩa hay áp dụng những điều tôn giáo này rao truyền, nhất là khi đối với những sắc dân không theo Ki Tô Giáo. Những công vụ truyền đạo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo. Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm đạo quân tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến thắng của nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương - sự thành công thường thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi.
Những dân tộc chậm tiến nhưng có nền văn minh cao mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân."
"Christianity never meant or practised what it preached, particularly when dealing with non-Christian races. Christian missions were never solely Christian missions. They were invariably preceded, accompanied, or followed by Western warehouses, Western diplomacy, and Western armies. Whichever the sequence, the result was eternally the same: the partial or total loss of the regional, national, and racial liberty of the Asiatics, wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made their appearance. The voluntary or forced acceptance of both was proclaimed to be the victory of Christian civilization, and Christian civilization came to mean whatever tended to be dominant - in other words, whatever was Western - success very often depending on the appearance of naval squadrons off the coasts... Backward and highly civilized peoples lost their independence; their cultures were ridiculed, the color of their skin became a mark of opprobium; their past, present, and even potential future achievements were scorned and despised... This while, at the same time, Western religion preached universal brotherhood, Western democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality of all races...)
79. Học giả Ca-tô Joseph D. Daleiden, The Final Superstition, trg. 169:
"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở đầu, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này."
(In summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in both the Old World and the New was due in large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history, from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition, and repression of other cultures throughout the world, Christianity has demonstrated its destructive antihuman values.)
80. Tiến sĩ Madalyn O'hair, All The Questions You Ever Wanted To Ask American Atheists, Back cover :
"Cái tiền đề căn bản của Ki Tô Giáo là sự bất khoan nhượng. Tín đồ Ki Tô không thể chỉ theo tín ngưỡng của mình và để cho mọi người khác theo tín ngưỡng của họ. Giê Su Ki Tô đòi hỏi rằng các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo người khác (nghĩa là muốn cho mọi người đều phải tin vào Giê-su) và điều này đã gây nên nhiều sự đau khổ cho nhân loại hơn bất cứ tôn giáo nào khác. Những vị Thần của tôn giáo đa thần sống hòa bình với nhau. Nhưng khi Ki Tô Giáo xuất hiện với tính chất riêng biệt độc nhất của nó, dựa trên điều răn thứ nhất của 10 điều răn, "Ngươi không được thờ Thần nào khác", thì sự giết chóc bắt đầu'
(The basic premise of Christianity is intolerance. The Christian cannot just have his belief and permit everyone else to have theirs. Jesus Christ demanded that the Christian convert and this has caused more grief to mankind than any other religion. The old pagan gods lived side by side. But when Christianity came with its exclusivism, based on the first of the Ten Commandments, "Thou shalt have no other God before me," the killing began)
81. Mục sư Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, trg. 18:
"Ki Tô Giáo đã để lại một dấu vết kinh hoàng, khổ sở và chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm máu. Và những hiện tượng tàn ác, lố bịch trong sử sách là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn, đã được gây ra dưới cái ảo tưởng (đôi khi là cái cớ): đó là sự hướng dẫn của Thượng đế."
(Christianity has left an appalling trail of misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And the cruel, grotesque events they record are prime examples of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometimes pretext) of divine guidance.)
Trên đây chỉ là nhận định về Ki Tô Giáo và Thiên Chúa của một một số nhỏ trong số hàng trăm danh nhân trên thế giới mà vì một lý do hiển nhiên, tôi không thể liệt kê hết ra đây. Chúng ta nên để ý rằng tất cả những nhân vật mà tôi dẫn chứng ở trên đều sinh ra và trưởng thành trong những xã hội Ki Tô nói chung, Ca Tô nói riêng, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Ki Tô, và chính họ là những người biết rõ thực chất của Ki Tô Giáo hơn ai hết. Họ là những hạng người nào, địa vị và uy tín của họ ra sao, họ đã có những đóng góp gì cho nhân loại v..v..? Tên tuổi của họ và những đóng góp văn hóa của họ, được biết rộng rãi trong giới hiểu biết trên khắp thế giới, tưởng cũng là một bảo đảm cho giá trị nhận định của họ mà ít người dám lên tiếng phản bác.
Những nhận định về Ki Tô Giáo của những nhân vật nổi danh thế giới như trên hiển nhiên làm cho chúng ta thắc mắc. Vì lẽ gì mà họ đều có những nhận định không mấy tốt đẹp về Ki Tô Giáo? Phải chăng họ là những người ngoại đạo? Không phải. Phải chăng họ là những người lạc đạo? Không phải. Phải chăng họ là những người đầu óc kém cỏi, không nhận ra được những cái hay cái đẹp của Ki Tô Giáo theo như những lời tự nhận của các giáo hội Ki Tô? Cũng không phải. Đó là những người có đầu óc khai phóng nhất, thông thái nhất, và lương thiện nhất trong những tư tưởng của họ, và đã góp phần khai sáng nhân loại không ít.
Một thắc mắc lớn là, tại sao một tôn giáo thường tự nhận là ánh sáng của nhân loại, là tình thương của Thượng Đế, là dân chủ, là đạo đức, bác ái v..v.. mà lại có thể có một lịch sử đen tối như vậy, theo những nhận định như trên? Ngày nay, phần lớn những nhà khảo cứu về tôn giáo đã đồng ý rằng: những lời tự nhận như trên của Ki-tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo Rô-ma, thường được giới trí thức biết dưới danh từ "học thuật Ca Tô" (Catholic scholarship), không dựa trên sự thực và chỉ là những lời hoa mỹ với mục đích lạc dẫn đám tín đồ kém hiểu biết, của hàng Giáo Phẩm: Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh Mục, để duy trì quyền lợi thế tục và giữ tín đồ, và rằng, cái lịch sử đen tối của giáo hội không phải là do vài cá nhân làm sai ý Chúa mà chính là đường lối của Giáo hội, bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối một cách mù quáng vào Thánh Kinh. Một vấn đề được đặt ra là: những nhận định về Ki Tô Giáo như trên đúng hay sai, có bao nhiêu phần xác thực trong đó? Tính cách xác thực của những nhận định về Ki Tô Giáo như trên sẽ được chứng minh trong các chương sau, qua sự khảo sát lịch sử Ki Tô Giáo trong 2000 năm qua, qua sự phân tích Thánh Kinh, và qua những gì mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng.
No comments:
Post a Comment