Sunday, August 31, 2008

Ý đền Lybia $5 tỉ

Ý vừa chấp nhận đền Lybia $5 tỉ cho việc chiếm đóng Lybia trong 30 năm thời thực dân kết thúc vào năm 1943. Pháp-Vatican đô hộ Việt Nam 80 năm và cùng với Mỹ tái xâm lược và tiến hành một cuộc chiến tranh tàn phá chia cắt Việt Nam trong 30 năm sau đó giết chết hơn 3 triệu người, và mấy triệu người khác thương tật bệnh hoạn thì đền bao nhiêu mới đủ đây? Không thấy cái đám yêu tự do dân chủ nó dám đòi bố tây nó bồi thường gì cả, kể cũng lạ! Nó yêu nước yêu dân thế mà bố tây nó giết bao nhiêu người Việt Nam nó cũng không dám hó hé!

Chẳng những nó không đòi bố tây nó bồi thường cho Việt Nam mà ngược lại nó còn không biết xấu hổ dám la lối làm dữ đòi đất công của Việt Nam dâng lên cho nhà thờ bố tây của nó nữa!

-------------------------------------------

Italy to compensate Libya $5B for colonial rule

Italy agrees to compensate Libya US$5 billion for 3 decades of colonial rule

KHALED EL-DEEB
AP News

Aug 30, 2008 10:29 EST

Italy agreed Saturday to pay Libya US$5 billion as compensation for its 30-year occupation of the country, which ended in 1943.

Italian Prime Minister Silvio Berlusconi and Libyan leader Moammar Gadhafi signed a memorandum pledging a US$5 billion compensation package involving construction projects, student grants and pensions for Libyan soldiers who served with the Italians during World War II.

"It is a material and emotional recognition of the mistakes that our country has done to yours during the colonial era," Berlusconi told reporters at the airport on his arrival. "This agreement opens the path to further cooperation."

In return, Italy wants Libya to crack down on illegal migrants turning up on Italian shores, and Italy will fund US$500 million worth of electronic monitoring devices on the Libyan coastline.

Gadhafi received Berlusconi under a big tent in Benghazi where they discussed the agreement over lunch. The Italian leader said US$200 million of the package would be for infrastructure projects over the next 25 years, including a coastal highway stretching across the country from Tunisia to Egypt.

The two leaders exchanged gifts, with Berlusconi giving Gadhafi a silver inkstand, sculpted in the form of a lion's head, with two pens inside to sign the agreement. The Libyan leader gave Berlusconi a linen suit.

Berlusconi's office said in a statement that the premier would also hand over to Gadhafi the Venus of Cyrene, an ancient Roman statue taken in 1913 by Italian troops from the ruins of the Greek and Roman settlement of Cyrene, on the Libyan coast.

Relations between the two countries have warmed over the last few years, with Italian leaders meeting Gadhafi several times. However, it has taken years of negotiations for the two sides to reach a deal on compensation for Italy's rule over Libya from 1911 to 1943.

Libya named Aug. 30 Libyan-Italian Friendship Day.

Saturday, August 30, 2008

Phóng viên muốn chụp ảnh chính khách và đại gia bị bắt

Ngày 27/8 vừa qua tại khách sạn Brown Palace Hotel, thành phố Denver, Colorado, phóng viên Asa Eslocker làm việc cho đài truyền hình ABC bị cảnh sát bắt vì tội xâm nhập trái phép (trespass), gây trở ngại (interference), và không chấp hành luật lệnh (failure to follow a lawful order). Trong mấy ngày trước, Denver là nơi diễn ra Đại Hội Đảng Dân Chủ.
Chuyện này là sao? Theo bài tường trình của ABC có kèm theo video clip, anh này cùng nhóm phóng viên chụp ảnh chỉ đứng bên ngoài khách sạn, đứng trên lề đường công cộng chờ chụp hình những VIP có đóng góp tiền nhiều và những thượng nghị sĩ đảng Dân Chủ từ trong khách sạn sẽ đi ra. Những đại gia và những chính khách chóp bu này đang có một cuộc họp riêng trong khách sạn đó.
Trong video, cảnh sát nói lề đường là của khách sạn và dùng tay đẩy vào cổ (tống cổ ) phóng viên này sang lề đường bên kia. Cảnh sát nói rằng họ hành động theo đơn khiếu nại của khách sạn Brown Palace. Khách sạn này là nơi tập trung của các chính khách đảng Dân Chủ trong kỳ đại hội ở Denver này. Những cảnh sát ngay tại hiện trường từ chối câu hỏi bắt anh ta vì tội gì.
Cảnh sát cũng nói với Eslocker rằng: "Tao không đánh mày nằm - chửi thề - đơ ra đó là may rồi đó." ("You're lucky I didn't knock the f..k out of you.")
Eslocker đang cùng với đồng nghiệp tiến hành một phóng sự điều tra về vai trò của những tay vận động hành lang làm việc cho các đại công ty và những đại gia có đóng góp nhiều tiền cho đảng này. Anh ta đã được tại ngoại hầu tra với số tiền thế chân là $500.
Em nào muốn vận động học đòi "dân chủ" Mỹ là mị dân, hay là ngu dốt, chỉ một trong hai loại đó thôi. Ở Mỹ chỉ có dân chủ tư sản rất rõ ràng thậm chí có cả giá cả cụ thể như trong những buổi tiệc gây quĩ. Em nào không đóng góp hay đóng góp ít thì ở nhà xem TV. Em nào đóng góp nhiều hơn được vé vào cửa thì chỉ đứng xa mà ngó, càng nhiều tiền thì càng được ngồi gần chính khách, nhiều thật nhiều thì được gặp riêng trong phòng kín, nói chuyện gì không ai biết cả. Bản thân những chính trị gia thì cũng là nhà giàu với nhau cả.
Muốn biết họ to nhỏ với nhau cái gì trong phòng riêng thì khó hơn lên trời, dĩ nhiên. Đứng canh ngoài cửa khách sạn chụp hình thôi thì đã phiền phức rồi.
Nhân vụ này cũng thấy rằng "cảnh sát nhân dân" ở Việt Nam nên học cách phục vụ nhân dân từ "cảnh sát dân chủ" của Mỹ cho vừa lòng các nhà "dâng chủ" Việt Nam. Có nghĩa là chỉ cần nói một tiếng các nhà "dâng chủ" không nghe là còng ngay.
Ở Mỹ chưa cần đập phá, cảnh sát dân chủ bảo một tiếng đi chỗ khác chơi mà không nghe là còng tay quẳng lên xe tù được rồi.
--------------------------------------------

Asa Eslocker Was Investigating the Role of Lobbyists and Top Donors at the Convention

By BRIAN ROSS
Aug. 27, 2008
DENVER -- Police in Denver arrested an ABC News producer today as he and a camera crew were attempting to take pictures on a public sidewalk of Democratic senators and VIP donors leaving a private meeting at the Brown Palace Hotel.
Police on the scene refused to tell ABC lawyers the charges against the producer, Asa Eslocker, who works with the ABC News investigative unit.
A cigar-smoking Denver police sergeant, accompanied by a team of five other officers, first put his hands on Eslocker's neck, then twisted the producer's arm behind him to put on handcuffs.
A police official later told lawyers for ABC News that Eslocker is being charged with trespass, interference, and failure to follow a lawful order. He also said the arrest followed a signed complaint from the Brown Palace Hotel.
Eslocker was put in handcuffs and loaded in the back of a police van which headed for a nearby police station.
Video taken at the scene shows a man, wearing the uniform of a Boulder County sheriff, ordering Eslocker off the sidewalk in front of the hotel, to the side of the entrance.
The sheriff's officer is seen telling Eslocker the sidewalk is owned by the hotel. Later, he is seen pushing Eslocker off the sidewalk into oncoming traffic, forcing him to the other side of the street.

It was two hours later when Denver police arrived to place Eslocker under arrest, apparently based on a complaint from the Brown Palace Hotel, a central location for Democratic officials.

During the arrest, one of the officers can be heard saying to Eslocker, "You're lucky I didn't knock the f..k out of you."

Eslocker was released late today after posting $500 bond.

Eslocker and his ABC News colleagues are spending the week investigating the role of corporate lobbyists and wealthy donors at the convention for a series of Money Trail reports on ABC's "World News with Charles Gibson."

Thursday, August 28, 2008

Lý lịch Thái Hà

Vào hai trang tiengnoigiaodan.net vietcatholic.net chúng ta thấy rõ rằng những người đạo Chúa đang tham gia chính trị rất tích cực, họ chống đối kịch liệt và đòi lật đổ chính quyền hiện nay. Nếu đã tham gia chính trị ngày đêm moi móc người khác thì cũng phải nên chuẩn bị nghe người ta moi móc đạo của mình coi nó thơm tho như thế nào mà có tư cách đòi chống báng lật đổ người khác. Chúng ta muốn thay đổi thì phải thay đổi cho tốt hơn chứ không chỉ biết đập phá, cho một đám mê tín cuồng loạn ngoi lên chỉ là một hành động phá hoại.

Trở lại vấn đề lý lịch Thái Hà, dưới đây là dữ liệu được đăng trên vietcatholic.net của ông Lữ Giang:

VÀI NÉT LỊCH SỬ

Nói đến Thái Hà ấp là phải nói đến Hoàng Cao Khải (1850–1933). Ông là một đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái. Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương, rồi năm 1890 ông làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công. Thái Hà ấp ngày xưa là ấp riêng của ông. Ông đã về hưu và qua đời tại đây.

Năm 1926, hai linh mục Hubert Cousineau và Eugène Larouche thuộc Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) ở Canada đã đến truyền giáo tại Việt Nam và năm 1928 hai ngài đã mua một khu đất thuộc ấp Thái Hà diện tích khoảng 6 héc-ta, nằm cạnh tuyến đường Hà Nội - Hà Đông, có nhà cửa đủ để một cộng đoàn sống mấy năm đầu.

Khu của DCCT nói trên rộng khoảng 60.000 mét vuông. Ngày 7.5.1929, Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội được chính thức thành lập tại đây. Sau đó, nhà thờ, nhà đệ tử, bệnh viện, trường học và các cơ sở khác cứ được xây dần thêm. Vì giáo dân quy tụ quanh Dòng Chúa Cứu Thế quá đông, nên giáo xứ Thái Hà đã được thành lập. Địa chỉ hiện nay là 180/2 Nguyễn Lương Bằng, phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội.

Năm 1954, khi Cộng Sản tiếp thu miền Bắc theo Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội còn lại 5 thành viên. Năm 1960, hai linh mục bị trục xuất, hai tu sĩ bị tù và chết trong tù (Thầy Văn và Thầy Đạt), cả tu viện còn lại Linh mục Vũ Ngọc Bích.

Sau đó, nhiều cơ quan và hàng ngàn cá nhân đã được chính quyền mới cho đến chiếm dụng gần hết khu đất của giáo xứ Thái Hà mà không có một giấy tờ nào. Nhà đệ tử giao cho xí nghiệp Dệt Thảm Đống Đa. Hiện nay, ngoài một số lớn nhà dân chiếm dụng, còn có các cơ sở của nhà nước như Trạm 4, Hội Chữ Thập Đỏ, Uỷ ban nhân dân phường Quang Trung cũ và mới, Kho Bạc Nhà Nước, Trường Học, v.v. Họ chỉ dành lại cho giáo xứ khoảng 2.700 mét vuông. Giáo xứ đã nhiều lần đòi lại một phần vì nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, nhưng không được chính quyền giải quyết. Sau này xí nghiệp Dệt Thảm Đống Đa tự động bán đất Nhà Dòng cho Công ty May Chiến Thắng mà không hề có ý kiến của Linh mục Vũ Ngọc Bích. Ngày 8.8.1996 Linh mục Vũ Ngọc Bích đã gửi lá đơn đầu tiên khiến nại về việc này.

Cuối năm 2006, vì làm ăn thua lỗ, Công ty May Chiến Thắng đã bán một phần khu này cho công ty Phước Điền có trụ sở tại Miền Nam. Phần còn lại cũng đã được bán cho một cán bộ thuộc ngành công an.

Đầu năm 2007, toàn bộ các khu xưởng may đã bị phá bỏ, chỉ còn chừa lại hai căn nhà vốn là nhà của DCCT. Do đó, Dòng và giáo xứ Thái Hà đã làm đơn yêu cần chính quyền trao trả lại khu đất. Từ đó tới nay, DCCT và giáo xứ Thái Hà đã nhiều lần gởi đơn lên các cấp chính quyền xin giải quyết, nhưng chính quyền không trả lời dứt khoát.

Ngày 25.7.2007, Linh mục Vũ Khởi Phụng thuộc DCCT và là Chánh xứ Thái Hà, có làm một báo cáo trình Đức Tổng Giám Mục Hà Nội và Linh mục Bề trên Giám Tỉnh DCCT Việt Nam về vụ tranh chấp đất nói trên, trong đó có cho biết giáo dân đang cảnh giác việc Công ty May Chiến Thắng có thể bán đất của giáo xứ và đang tìm cách ngăn chận.

Như vậy đất này xưa nhất được biết đến theo ông Lữ Giang là của một quan đại thần triều Nguyễn đã từng cộng tác với Pháp đàn áp những cuộc khởi nghĩa chống Pháp của người Việt.

Những người "Công giáo" hay dùng đến hai chữ "công lý" khi "đòi" đất của họ nên chúng ta thử phân tích xem trong câu chuyện này "công lý" đó là ở đâu.

Đất Việt Nam là do tổ tiên người Việt Nam đổ biết bao nhiêu xương máu giành giựt cả mấy ngàn năm mới có mà để lại, triều đình nhà Nguyễn sau khi đầu hàng và cắt đất cho Pháp thì không còn tư cách và chính nghĩa đại diện cho người Việt Nam nữa, do đó những vua quan nhà Nguyễn đầu hàng Pháp cũng không có tư cách ban phát, chia chác, sang nhượng đất đai Việt Nam làm của riêng cho bất kỳ ai, nói gì có quyền đem bán cho những linh mục ở Canada (mà thực ra cũng là người Pháp) để tạo ra những lò sản xuất con chiên chống lại dân tộc.

Một bên là lấy đất rộng 6 héc-ta làm của riêng nhà thờ để sản xuất con chiên cho nhu cầu chống lại dân tộc và một bên lấy lại đất ăn cướp để chia cho đủ thứ loại người và làm đất công, nhà máy công sản xuất hàng hóa thì cái nào có "công lý"?

Tiếm danh là cái tật lớn của người "Công giáo" vì họ được tẩy não từ nhỏ rằng Chúa của họ là trên hết, bất cứ cái gì họ đòi, họ muốn cũng là "công lý", bao gồm cướp giựt đất đai của nguyên cả một quốc gia. Họ không hề biết rằng họ chỉ là một thiểu số to mồm dữ dằn ở Việt Nam, trên cả thế giới cũng vậy, nhưng họ không hề biết mắc cỡ mà luôn tự gọi mình là "Công giáo" và những việc mình làm, mình đòi hỏi là "công lý".

Khi thực dân Pháp xâm lược, chiếm hữu, khai thác toàn bộ Việt Nam thì không thấy giáo hội "Công giáo" Việt Nam lãnh đạo giáo dân đòi hỏi "công lý" gì cả! Tại sao? Tại vì thực dân Pháp lúc đó đang thực hành cái thứ "công lý" của "Công giáo". Họ đập bỏ chùa chiền, xây dựng nhà thờ chình ình ngay giữa những thành phố lớn nhất Việt Nam là "công lý". Họ chiếm hữu, cướp đoạt, chia chác, sang nhượng với nhau toàn bộ nước Việt Nam với người Pháp là có "công lý". Khi người Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản nổi lên giành lại tất cả đất đai chia lại cho người Việt Nam thì họ lại nói là không có "công lý".

Họ tuyên bố trước mặt vua Việt Nam rằng họ là thần dân của Chúa Trời, ông vua đứng sang một bên. Dân chống Pháp thì họ giúp Pháp chống dân. Việt Minh lãnh đạo dân chống Pháp có kết quả thì họ chống Việt Minh, Pháp cướp nguyên cả nước Việt Nam thì họ im re. Việt Minh lấy đất lại chia cho bần cố nông có ruộng cày thì họ hô hoán lên là ăn cướp. Thời Pháp có một loại địa chủ gọi là địa chủ nhà thờ. Ai không biết xin mời tìm lịch sử Việt Nam mà đọc.

Rõ ràng chúng ta thấy rằng "công lý" của người "Công giáo" là ngược lại 180 độ so với đại đa số người Việt Nam, nhưng người "Công giáo" vẫn không hề mắc cỡ mà gọi cái lý của họ là "công lý".

Trong bài của ông Lữ Giang ở trên có phần nói rằng:

Năm 1954, khi Cộng Sản tiếp thu miền Bắc theo Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội còn lại 5 thành viên. Năm 1960, hai linh mục bị trục xuất, hai tu sĩ bị tù và chết trong tù (Thầy Văn và Thầy Đạt), cả tu viện còn lại Linh mục Vũ Ngọc Bích.

Có điều kỳ lạ thú vị tôi thấy ở đây là, sau khi Cộng Sản tiếp thu miền Bắc năm 1954 thì "Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội" chỉ còn lại có 5 thành viên. Tại sao vậy? Một khu đất rộng 6 héc-ta chỉ còn 5 thành viên ở đó? Như vậy các thành viên khác đi đâu hết rồi? Có phải họ "theo Chúa vào Nam"? Đây cũng là một đặc điểm tiêu biểu của người "Công giáo", đó là đụng đâu nói đó, vì họ có cái loại "đức tin" không cần lý lẽ nên những điều họ nói cũng lộn xả ngầu không có lý lẽ logic chút nào cả.

Một đằng thì họ nói "Chúa ở khắp mọi nơi", "Chúa ở cùng anh chị em", nhưng khi cha đạo nói "Chúa di cư vào Nam" thì họ cũng bỏ xứ sở nơi chôn rau cắt rốn đi theo Chúa vào Nam! Chúa có khả năng tạo ra nguyên cả cái vũ trụ theo lời họ nhưng lại phải chạy làng một dúm Việt Minh ốm yếu như vậy? Chuyện buồn cười như vậy mà cũng có thể xảy ra được trên 800.000 người thì đủ biết trình độ mê tín trong cái đạo thờ tây này nó kinh khủng như thế nào!

Ngày xưa họ bỏ xứ đạo theo Chúa vào Nam, mấy chục năm sau lại có người "đòi" đất đó để làm nhà thờ. Chẳng lẽ Chúa đã trở lại đất Bắc sống với Cộng Sản? Không biết họ trả lời thế nào đây? Họ đòi "Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền" mà không thấy website của họ có diễn đàn để người ngoại đạo thể hiện quyền tự do ngôn luận.

Sau khi cả một nước Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, lại không thấy linh mục đồn "Chúa" tản cư đi đâu đó để cái đám cừu này đi theo cho yên ổn, mà hình như "Chúa" đã di cư ra Bắc lại nên họ lại phải cần đất làm nhà thờ.

Rõ ràng cái đám dân "Chúa" ngoan ngoãn với tây mà dữ dằn với người Việt này là công cụ của một số người thờ tây giựt dây kiếm chuyện nhằm làm lợi cho mưu đồ bắt nô lệ tâm linh trên khắp thế giới của Vatican. Họ không được theo "Chúa" di tản khỏi Việt Nam vì họ có nhiệm vụ thiêng liêng là quậy phá Việt Nam cho ngoại bang.

Thêm nữa, trong cả hai trang web trên, tôi không thấy họ trưng ra những văn bản mua bán nguyên gốc giữa ông Hoàng Cao Khải và hai linh mục người Canada. Nếu họ không có giấy tờ thì làm sao "đòi" đất? Cái này không phải là tôi nói mà chính là người "Công giáo" nói. Trong vụ "đòi" "Tòa Khâm", khi có người trưng ra những dữ kiện lịch sử cho rằng "Tòa Khâm" và cả một vùng rộng lớn xung quanh đó ngày xưa là nền của khu Tháp Báo Thiên, thì có linh mục nói rằng đó chỉ là chuyện lịch sử, không dùng làm bằng chứng pháp lý được, nếu có giấy tờ thì họ sẽ trả đất cho nhà chùa ngay. Tôi mong rằng họ làm được cái mà họ bảo người khác, tức là phải trưng ra giấy tờ sở hữu của khu đất Thái Hà trước khi nói chuyện.

Không nên đụng chạm đến tôn giáo?

Có nhiều bạn khi đọc những tài liệu lịch sử nghiên cứu về những chuyện thật của Công giáo La mã thường nói rằng tại sao lại đụng tới tôn giáo hay khuyên không nên đụng đến tôn giáo. Có người còn nhảy đong đỏng lên tấn công bài viết và người viết mặc dù họ không thể đưa ra một lý lẽ, bằng chứng nào phản bác lại những quan điểm trình bày một cách khoa học của tác giả.

Phản ứng đó là loại phản ứng của động vật cấp thấp giống như con cá khi bạn gõ vào hồ trước khi cho nó ăn để luyện cho nó quen. Khi nó đã quen, bạn gõ vào hồ thì nó sẽ đến mặc dù có hay không có đồ ăn. Những người đã nói ở trên cũng vậy, họ có phản ứng duy nhất giống nhau khi đọc được một bài phê bình Công giáo La mã vì họ đã được dạy rằng không nên đụng chạm đến tôn giáo, không cần biết nội dung cụ thể người ta nói gì.

Phản ứng của con người là tùy vào trường hợp cụ thể vì con người có bộ óc phát triển hơn cá nhiều, óc người có thể đọc chữ, phân biệt được lý lẽ, thấy được sự khác biệt giữa một bài chửi rủa vô căn cứ và một bài phân tích phê bình một cách khoa học, có thể họ không thích văn phong của người viết, nhưng họ vẫn có thể tiếp thu được nội dung.

Tại sao có người viết bài phê bình Công giáo La mã?

Tại vì lịch sử đẫm máu của Công giáo La mã mà chính những người thờ Chúa cũng phải ghê tởm. Một số lớn những người di cư vào nước Mỹ lúc đầu là những người chạy trốn sư bách hại của những chính quyền đạo phiệt phong kiến ở Châu Âu.

Tại vì Công giào La mã là lực lượng tiên phong xung kích dẫn đầu cho các thế lực thực dân xâm lược thôn tính đồng hóa hoặc hủy hoại, tiêu diệt không biết bao nhiêu nền văn hóa bản địa trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Chính Giáo hoàng của Công giáo La mã cũng đã công nhận những tội ác của giáo hội đó.

Tại vì giáo lý mê tín của Công giáo La mã biến con người thành con vật không biết tự suy nghĩ mà chỉ biết nghe lời chủ chăn, chủ chăn lại nghe lời đại chủ chăn là người nào không biết ở tận đâu đâu bên "Tòa Thánh".

Tại vì Vatican vẫn luôn nuôi mộng dai hơn đỉa đói muốn "mở mang nước Chúa" ở Châu Á và tên toàn thế giới với cuốn "Kinh Thánh" đó, thì phải có người phân tích cuốn "Kinh Thánh" đó chứa đựng cái gì trong đó chứ.

Tại vì lực lượng Công giáo La mã người Việt là lực lượng chống cộng, chống dân tộc hăng nhất, yêu tây thiết tha và giết người Việt chống tây như ngoé. Họ cũng là lực lượng được tây tin dùng và làm nội ứng, làm tay sai cho quân xâm lược, quấy phá bên trong và bên ngoài Việt Nam từ thời các vua nhà Nguyễn trị vì Việt Nam và cho tới tận bây giờ. Tại vì người Công giáo Việt đặt chính quyền Việt Nam dưới Vatican khi họ vào đạo từ thời các vua Nguyễn cho tới bây giờ.

Tại vì họ là đám nhai lại lại những khẩu hiệu "Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền" của chủ tây của họ lớn nhất nên phải có người tìm hiểu xem có cái gì có thể gọi là "Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền", trong hệ thống Công giáo La Mã của họ không. Một mặt họ tự nguyện bò xuống làm cừu cho tây chăn rồi mặt khác lại đòi những thứ quyền con người đó từ người Việt!

Tôi thấy có nhiều người Công giáo đòi "Tự Do Ngôn Luận" rất hăng tiết, nhưng họ không chịu nghe, không chịu đối điện với "Tự Do Ngôn Luận" về tôn giáo của họ. Họ phê bình người ta đêm ngày, nhưng người ta phê bình họ thì họ nhảy đong đỏng lên, mặc dù nói về bậy bạ thì Công giáo La mã có nhiều cái để phê bình hơn nhiều. Đây là cái bệnh của người Công giáo. Họ tự cho rằng Chúa của họ là trên hết, đạo Chúa của họ là trên hết. Họ tự cho họ cái quyền phê bình và chửi rủa những tư tưởng triết học, chính trị, tôn giáo khác, nhưng ngược lại thì không được.

Ở Âu-Mỹ sách phê bình "đức tin" các đạo Chúa đầy ra, những người Việt viết bài phê bình đã dùng rất nhiều dẫn chứng từ những sách này, và họ cũng dùng tài liệu có căn cứ nhất chính là cuốn "Kinh Thánh" của đạo Chúa.

Những người Việt theo Công giáo La Mã đáng lẽ phải cám ơn những nhà nghiên cứu đã đọc những sách phê bình và "Kinh Thánh" đó để mở mang đầu óc cho bạn chứ tại sao lại nhảy đong đỏng lên mà không bào chữa được điểm nào? Điều này càng chứng minh "đức tin" của bạn là mù quáng vì bạn chả hiểu nó là cái gì để mà bào chữa cả phải không ạ!

Khi bạn định đặt cái gì hoặc ai đó lên bàn thờ để ngụp lạy thì ít nhất bạn cũng phải tìm hiểu vật đó là cái gì hay người đó là ai cho rõ ràng phải không? Bạn đã lười biếng không làm chuyện đó mà khi có người bỏ công làm giùm cho bạn thì bạn lại muốn cắn người ta nghĩa là sao?

Wednesday, August 27, 2008

Peace.of.mind - Phép lạ của Chúa Giêsu

Nguồn giaodiemonline
đăng ngày 22/08/2008

Ai theo đạo Phật cũng biết chuyện một người mẹ rất đau khổ vì cái chết của đứa con vừa được một tuổi. Người mẹ tìm đến Phật và xin ngài dùng phép lạ để cứu cho đứa con được sống lại. Phật trả lời : « Ta có thể làm được phép lạ này nếu bà kiếm được trong làng này một nhà nào không có người chết. » Người đàn bà đau khổ đã đi khắp làng để tìm hỏi, nhưng gia đình nào cũng có ông, bà hay cha, mẹ hay con, cháu đã chết. Và bà đã ngộ ra ý của Phật muốn cho bà thấy và chấp nhận cái chết như một điều không thể tránh được, để từ đó bà có thể thấy và chấp nhận đời sống dưới một nhãn quan bình an hơn.

Trong khi đó, đọc kinh thánh của đạo Chúa Ki-tô, người theo đạo được « bề trên » dạy phải chấp nhận những mê tín, dị đoan hoàn toàn vô nghĩa lý và phản khoa học như Mẹ đồng trinh, như Chúa sống lại, như 32 phép lạ dưới đây mà so sánh với đồng bóng, nước thánh thuốc thần trong tín ngưỡng dân gian nước ta thì còn nhảm nhí hơn rất nhiều.

Từ những mê tín thuần túy tôn giáo (như Đức Mẹ hiện ra ở LaVang mà giáo hội Công giáo Việt Nam hiện đang tưng bừng ca hát về một sự bịa đặt để cướp đất dành chùa), đầu óc của người Công giáo trở nên bị nhiễm độc trong cả những lãnh vực không tôn giáo. Sự kiện đầu óc bị điều kiện hóa này của người theo đạo Chúa đã là lý do bi thảm giải thích vì sao người Công giáo Việt Nam chấp nhận luôn những điều dối trá ngoài đời về chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu như họ đã từng chấp nhận và trợ lực cho thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dùng bom đạn để tàn phá chính quê hương của họ.

Tâm thức nhiễm độc này của người Công giáo mới thật là một quốc nạn cho dân tộc Việt.

32 PHÉP LẠ CỦA CHÚA GIÊ-SU
STT Phép Lạ Kinh
1 Biến nước thành rượu Gio-an 2:1-11
2 Đuổi một hồn dơ bẩn ra khỏi hồn của một người bị ma ám trong một Hội đường (Do Thái) Mác-cô 1:23-27
Lu-ca 4:33-37
3 Chữa lành bệnh sốt cho bà mẹ vợ của thánh Phê -rô Mát-thêu 8:14-15
Mác-cô 1:29-31
Lu-ca 4:38-39
4 Giúp bắt một mẻ lưới cá to Lu-ca 5:1-11
5 Tẫy rửa một người bị hủi Mát-thêu 8:1-4
Mác-cô 1:40-45
Lu-ca 5:12-14
6 Chữa lành bệnh cho người hầu của một ông tướng La-Mã Mát-thêu 8:5-13
Lu-ca 7:1-10
7 Chữa lành bệnh cho con trai một người quí phái ở thành Capernaum Gio-an 4:46-54
8 Chữa lành một người què ở hồ của thành Bethesda Gio-an 5:1-15
9 Cứu sống người con trai đã chết của một góa phụ ở cổng thành Nain Lu-ca 7:11-16
10 Làm dịu một cơn bão Mát-thêu 8:23-27
Mác-cô 4:36-41
Lu-ca 8:22-25
11 Trừ qủi ra khỏi hai người ở Gergesenes
Trừ qủi ra khỏi một người ở Gadarenes
Trừ qủi ra khỏi một người ở Gadarenes
Mát-thêu 8: 28-34
Mác-cô 5:1-20
Lu-ca 8:26-39
12 Chữa một người lành bệnh liệt bại ở Capernaum Mát-thêu 9:1-8
Mác-cô 2:1-12
Lu-ca 5:18-26
13 Cứu sống lại người con gái của Jairus, người cầm đầu một Hội đường (Do Thái) Mát-thêu 9:18-26
Mác-cô 5:22-43
Lu-ca 8:41-56
14 Làm ngừng chảy máu dầm dề một người đàn bà có tháng đã mười hai năm Mát-thêu 9:20-22
Mác-cô 5:25-34
Lu-ca 8:43-48
15 Làm sáng mắt hai người mù Mát-thêu 9:27-31
16 Chữa lành bệnh qủy ám đứa con gái một bà người Ca-na-an
Chữa lành bệnh qủy ám đứa con gái một bà người Syro-Phoenic
Mát-thêu 15:21-28
Mác-cô 7:24-30
17 Chữa lành một người bị câm và điếc Mát-thêu 9:32-33
Mác-cô 7:31-37
18 Chữa lành tay một người bị teo Mát-thêu 12:9-13
Mác-cô 3:1-5
19 Chữa lành một người bị mù và câm vì qủy ám Mát-thêu 12:22
20 Tạo đồ ăn cho năm ngàn người Mát-thêu 14:14-21
Mác-cô 6:35-44
Gio-an 6:1-14
21 Bước trên nước biển Ga-Li-L ê Mát-thêu 14:23-33
Mác-cô 6:46-51
Gio-an 6:16-21
22 Tạo đồ ăn cho bốn ngàn người Mát-thêu 15:33-39
Mác-cô 8:1-9
23 Dùng nước miếng một người mù để làm ông ta sáng mắt Mác-cô 8:22-26
Gio-an 9:1-41
24 Làm sáng mắt hai người mù gần thành Jericho.
Làm sáng mắt Bartimaeus gần thành Jericho
Làm sáng mắt một người mù gần thành Jericho
Mát-thêu 20:29-34
Mác-cô 10:46-52
Lu-ca 18:35-43
25 Chữa một bé trai lành bệnh động kinh Mát-thêu 17:14-18
Mác-cô 9:17-29
26 Lên tinh thần một người đàn bà bị nãn chí Lu-ca 13:10-13
27 Chữa một người đàn ông lành bệnh phù Lu-ca 14:1-6
28 Chữa mười người lành bệnh hủi Lu-ca 17:11-19
29 Cứu Lazarus sống trở lại Gio-an 11:1-44
30 Xử tội một cây sung đến khô héo Mát-thêu 21:18-22
Mác-cô 11:12-21
31 Làm cho lổ tai bị cắt của Malchus, người hầu của một thượng tế, được lành trở lại Lu-ca 22:49-51
32 Giúp bắt một mẻ lưới cá to thứ nhì Gio-an 21: 1-11

Tuesday, August 26, 2008

Trình độ mặt dầy

Mỹ không chịu rút khỏi Iraq theo yêu cầu của người Iraq nhưng lại dám lớn tiếng đòi Nga rút khỏi Georgia. Chúng ta thử so sánh và phân tích sơ sơ để thấy trình độ mặt dầy của Mỹ.

Iraq cách Mỹ khoảng 5600 miles (1 mile = 1.6 km). Iraq không tấn công Mỹ hay vùng có người mang quốc tịch Mỹ định cư TRƯỚC, mà trái lại cả nước Iraq lúc đó đang bị LHQ cấm vận triệt để, máy bay Mỹ - Anh đêm ngày tuần tra gần 2/3 không phận Iraq.

Theo lý do chính thức do chính Mỹ đưa ra, chỉ cần Mỹ thấy rằng Iraq là một mối đe dọa cận kề thì đã đủ lý do dập cho Iraq nát bét, chết khoảng mấy trăm ngàn thường dân rồi.

Georgia có chung biên giới với nước Nga, và họ đã tấn công vùng ly khai theo Nga TRƯỚC, bắn rocket loạn xạ làm chết nhiều thường dân và binh lính gìn giữ hòa bình của Nga rồi SAU ĐÓ Nga mới trả đũa.

Cuộc tấn công trả đũa của quân đội Nga là nhắm vào quân đội Georgia. Cuộc bỏ bom "shock and awe" liên tục ba ngày đầu của Mỹ mở màn cuộc xâm lược Iraq là nhằm ngay vào thủ đô Baghdad (5 triệu dân)của Iraq và đã làm chết khơi khơi khoảng 6.000 dân.

Quân Nga ở trên đất Georgia chỉ mới vài tuần, trong khi quân Mỹ đã đóng trên đất Iraq 5 năm và tiếp tục giết chết thường dân Iraq lai rai, SAU KHI Iraq đã có bầu cử đàng hoàng trong dân chủ dưới sự bảo trợ và quan sát của quốc tế. Iraq hiện giờ đã có chính phủ dân chủ do chính Mỹ, quốc tế, và nhân dân Iraq công nhận.

NHƯNG Mỹ vẫn cù cưa không chịu rút quân MÀ CÒN đám lên giọng dạy đời, đòi hỏi Nga phải rút quân ngay lập tức không được nói nhiều!

Tại sao Mỹ không chịu rút quân khỏi Iraq? Rõ ràng cái Mỹ muốn là dâng chủ chứ không phải là dân chủ. Vì lẽ tự nhiên không có người chủ thực sự của một đất nước nào muốn có quân đội ngoại bang vào nhà ngồi trên đầu mình vô thời hạn cả.

Có một điều khoản mà Mỹ muốn Iraq chấp nhận là quân đội Mỹ làm bậy trên đất Iraq phải do Mỹ xử chứ người Iraq không được đụng đến giống như ở Nhật và Nam Hàn hiện nay vậy! Waaaaaa!

Thế kỷ 21 rồi nhưng Mỹ vẫn muốn xài những luật lệ thời thực dân. Nhưng lần này hơi khó đây vì HÌNH NHƯ dân Iraq không bạc nhược như dân Đông Á.

Thủ tướng al-Maliki nói trước cuộc họp của một số thủ lĩnh các bộ tộc người Shiite: "không một người lính ngoại nào được ở lại Iraq sau một hạn chót được ấn định cụ thể."

Mỹ lại cù nhầy không muốn ấn định rõ ràng thời gian rút quân, đã vậy còn đòi hỏi rằng việc rút quân phải "tùy theo tình hình" (dĩ nhiên "tình hình" là do Mỹ đánh giá), và trên hết quân đội Mỹ phải được ngồi trên pháp luật Iraq!

Người ta đã nói thẳng vào mặt đuổi mình đi, mình chằng những không thèm đi mà còn ra điều kiện này nọ đòi ngồi trên đầu người ta nữa!!! Dân chủ kiểu gì đây?! Trình độ mặt dầy ở đây phải nói là vô địch!

Không hiểu là khi dịch qua dịch lại giữa tiếng Anh và Ả-rập, ý tứ có bị hiểu nhầm không đây?!

Bush cù nhầy chỉ đồng ý "một hạn thời gian chung chung" ("general time horizon"), nhưng một trợ lý thân cận của Thủ Tướng al-Maliki nói rằng: "Chúng tôi thấy như vậy là quá mơ hồ". "Chúng tôi không thích cụm từ 'những hạn thời gian'. Chúng tôi không cảm thấy yên tâm với cụm từ đó."

Mỹ còn cù nhầy dùng cụm từ "quân tác chiến", nhưng một người trợ lý cao cấp khác của al-Maliki nói rằng chính quyền Iraq đã "ngừng nói về việc rút về nước của quân tác chiến. Chúng tôi chỉ nói về việc rút về nước," bao gồm cả lực lượng huấn luyện và hậu cần.

------------------------------------------

Iraqi leader insists on deadline for troop pullout

By QASSIM ABDUL-ZAHRA and ROBERT H. REID, Associated Press Writers

BAGHDAD - Prime Minister Nouri al-Maliki dug in his heels Monday on the future of the U.S. military in Iraq, insisting that all foreign soldiers leave the country by a specific date in 2011 and rejecting legal immunity for American troops.

Despite the tough words, al-Maliki's aides insisted a compromise could be found on the two main stumbling blocks to an accord governing the U.S. military presence in Iraq after a United Nations mandate expires at the end of the year.

Last week, U.S. and Iraqi officials said the two sides agreed tentatively to a schedule that includes a broad pullout of combat troops by the end of 2011 with the possibility that a residual U.S. force might stay behind to continue training and advising Iraqi security services.

But al-Maliki's remarks indicated his government was not satisfied with that arrangement and wants all foreign troops gone by the end of 2011.

That cast doubt on whether an agreement is near and suggested al-Maliki is playing to a domestic audience frustrated by the war and eager for an end to the foreign military presence.

"There can be no treaty or agreement except on the basis of Iraq's full sovereignty," al-Maliki told a gathering of Shiite tribal sheiks. He said an accord must be based on the principle that "no foreign soldier remains in Iraq after a specific deadline, not an open time frame."

Al-Maliki said the U.S. and Iraq had already agreed on a full withdrawal of all foreign troops by the end of 2011 — an interpretation that the White House challenged. Until then, the U.S. would not conduct military operations "without the approval" of the Iraqi government, al-Maliki said.

White House spokesman Tony Fratto said negotiations with the Iraqis were continuing and repeated the U.S. position that the withdrawal must be linked to conditions in Iraq — a clear difference with al-Maliki's interpretation of what had been agreed.

"Any decisions on troops will be based on the conditions on the ground in Iraq. That has always been our position and continues to be our position," Fratto said Monday in Crawford, Texas. "There is no agreement until there is an agreement signed."

Fratto said the U.S. was "optimistic that Iraq and the U.S. can reach a mutual agreement on flexible goals" and allow "Iraqi forces to provide security for a sovereign Iraq."

President Bush has long resisted a timetable for removing troops from Iraq, even under strong pressure from an American public distressed by U.S. deaths and discouraged by the length of the war that began in 2003.

Last month, however, Bush reversed course and agreed to set a "general time horizon" for bringing troops home, based on Iraq's ability to provide for its own security. But the Iraqis insisted they want a specific schedule.

"We find this to be too vague," a close al-Maliki aide told The Associated Press on Monday. "We don't want the phrase 'time horizons.' We are not comfortable with that phrase," said the aide, who spoke on condition of anonymity because of the sensitivity of the negotiations.

Another top al-Maliki aide, also speaking on condition of anonymity for the same reason, said the Iraqi government had "stopped talking about the withdrawal of combat troops. We just talk about withdrawals," including trainers and logistics troops.

U.S. and Iraqi officials said last week they had agreed to remove American combat troops from Iraq's cities by next June, withdrawing to bases where they could be summoned if necessary. The officials spoke on condition of anonymity because of the sensitivity of the issue, but the plan appeared in line with a U.S. strategy to turn urban security over to Iraqi police.

During his Monday address, al-Maliki also suggested the question of legal immunity for U.S. military personnel or contractors remains a sticking point in the negotiations.

The draft agreement provides that private U.S. contractors would be subject to Iraqi law but the Americans are holding firm that U.S. troops would remain subject exclusively to U.S. legal jurisdiction. The U.S. has ruled out allowing American soldiers to face trial in Iraqi courts.

But al-Maliki said his country could not grant "open immunity" to Iraqis or foreigners because that would be tantamount to a violating the "sanctity of Iraqi blood." He did not elaborate.

One of the al-Maliki aides said he believed language could be found to overcome differences over the withdrawal schedule but immunity was a tougher issue to resolve.

U.S. officials in Washington have privately expressed frustration over the Iraqi stand in the negotiations, which were supposed to have ended by July 31. The agreement must be approved by Iraq's factious 275-member parliament, where opposition to a deal is strong.

It appeared al-Maliki was seeking to bolster his nationalist credentials ahead of provincial elections late this year and a national ballot in 2009.

Al-Maliki's Shiite allies face a strong challenge from followers of anti-American cleric Muqtada al-Sadr, long an opponent of the U.S. presence. The prime minister's strong statements in support of an end to immunity and for a firm withdrawal timetable would make it difficult for him to accept an agreement that falls short of his public demands.

In violence Monday, an American soldier was mortally wounded in a shooting attack on his foot patrol in north Baghdad, the U.S. military said. An Associated Press tally shows at least 4,147 U.S. military personnel have died in the Iraq war since it began in March 2003.

___

Associated Press writers Sameer N. Yacoub and Hamza Hendawi contributed to this report.

Monday, August 25, 2008

Russia to recognize Georgia rebel regions

By Oleg Shchedrov and Aydar Buribaev

MOSCOW (Reuters) - Russian lawmakers approved on Monday a resolution recognizing the independence of two rebel regions of Georgia, a move likely to worsen relations with the West already strained by Moscow's military intervention there.

The upper house of parliament, or Federation Council, voted 130-0 to call on President Dmitry Medvedev to recognize the rebel regions of South Ossetia and Abkhazia as independent.

Georgia and Russia fought a brief war earlier this month over South Ossetia after Tbilisi sent in troops to try to retake the province by force, provoking a massive counter-attack by land, sea and air from Moscow.

"Today it is clear that after Georgia's aggression against South Ossetia (that) Georgian-South-Ossetian and Georgian-Abkhazian relations cannot be returned to their former state," upper house speaker Sergei Mironov said during the debate.

"The peoples of South Ossetia and Abkhazia have the right to get independence."

The lower house, or State Duma, was due to approve a similar resolution later in the morning.

"We will look today at the appeals from the peoples of Abkhazia and South Ossetia to recognize the independence of these republics, I think that all these decisions will be accepted," said Duma speaker Boris Gryzlov.

The non-binding resolutions could either signal Medvedev's intentions or be intended to strengthen his hand as he negotiates the status of Russian forces in Georgia with the West.

EU president France, which brokered a ceasefire in the conflict, which has killed hundreds of people and made thousands more homeless, called a September 1 meeting of EU leaders to discuss the crisis and review the bloc's relations with Russia.

German Chancellor Angela Merkel said ties with Moscow could be scaled back if its troops were not fully withdrawn.

But French Foreign Minister Bernard Kouchner was more cautious. "We're not talking about sanctions," he told France Inter radio.

"Getting a ceasefire, stopping hostilities and the troop withdrawal in eight days, that's quite a lot already. We'll have to see. We have to take stock of the situation."

Moscow, which has pulled back the bulk of its forces from central and western Georgia, says the residual troops are peacekeepers needed to avert further bloodshed and protect South Ossetia and Abkhazia.

But Georgia and the West object to the scale of the Russian-imposed buffer zone adjoining the two rebel regions, which hands Moscow pressure points on key oil and trade routes through Georgia to the Black Sea.

The United States, which has said Russia's bid to join the World Trade Organization could suffer, on Sunday delivered 55 tonnes of aid aboard the warship USS McFaul a gesture of support for its close ally, Georgian President Mikheil Saakashvili.

BARGAINING CHIP

Formal recognition by Russia of the independence of South Ossetia and the Black Sea province of Abkhazia, would put it on a collision course with the United States and other Western nations which insist on Georgia's territorial integrity.

On August 14 Medvedev told separatist leaders in Moscow that Russia would support a drive for self-determination by Abkhazia and South Ossetia and vowed to guarantee any such move.

However, the Kremlin could -- as it has done in the past -- ignore pleas by parliament that would exacerbate its confrontation with the West, and instead use domestic pressure as a bargaining chip in future negotiations with the West.

Russia has so far resisted repeated calls for formal recognition by South Ossetians and Abkhazians, although Kremlin officials have hinted that the Western recognition of Serbia's breakaway region of Kosovo has created a precedent.

But diplomats say the Kremlin is also worried about separatist pressures in some of Russia's own Caucasus regions and may be reluctant to grant South Ossetia independence for fear of creating a domino effect at home.

Moscow says its armed intervention averted a "genocide" of Ossetians by Georgia, and Russian leaders have said it is unthinkable the rebels would agree to reunite with Georgia.

Despite repeated demands for a complete Russian pullback to positions before the conflict, the West lacks leverage over a resurgent Russia, whose oil and gas it depends on.

(Additional reporting by Guy Faulconbridge in Moscow and James Mackenzie in Paris, writing by Michael Stott and Oleg Shchedrov; Editing by Charles Dick)

Saturday, August 23, 2008

Talk of Russia-Cuba Ties Seen as Warning to U.S.

ABC News

By Jeff Franks
August 22, 2008

HAVANA (Reuters) - Cuba and Russia have stirred memories of their Cold War alliance with recent talk of restoring "traditional" ties in what experts said was a warning to their old adversary, the United States.

Russia, once the island's top economic benefactor and military ally, has hinted at re-establishing a military presence in Cuba in a tit-for-tat for U.S. activities in Eastern Europe, including plans for a missile defense system, they said.

"Russia is clearly irritated at what it perceives as U.S. meddling in its neighborhood," said Cuba expert Phil Peters at the Lexington Institute in Virginia. "It seems to be sending a message that if you play on our periphery, we'll play in yours."

The ghost of Cuba-Russia relations past was raised last month by a news report that Russia might use Cuba as a refueling base for its nuclear-capable bombers. The Russian Defense Ministry later denied the report.

Such action would cross a "red line," said a U.S. Air Force general in language that brought to mind the 1962 Cuban missile crisis when the United States and Russia, then the Soviet Union, almost went to war over Soviet missile bases on the island 90 miles from Florida.

Deputy Prime Minister Igor Sechin went to Havana this month on what was billed as an economic trip and, accompanied by Russian Security Council Secretary Gen. Nikolai Patrushev, and met with Cuban President Raul Castro.

The security council, which guides Russian national security policy, said in a following statement the two countries planned "consistent work to restore traditional relations in all areas of cooperation."

Prime Minister Vladimir Putin chimed in later, saying, "We need to re-establish positions on Cuba and in other countries."

But analysts said Russia was a lot more likely to get increased trade with Cuba than it was military cooperation.

"It's impossible to imagine that anyone in the Cuban leadership would want to put their country in the bull's eye of another superpower showdown reminiscent of the missile crisis," said Brian Latell, a former CIA analyst now at the University of Miami.

"BLUSTER" FROM MOSCOW

"The military talk seems to be bluster on Moscow's part," Peters said. "Cuba has nothing to gain from a military relationship, which would be high-risk and out of character with the steady renovation of diplomatic relationships" under Raul Castro.

Moscow gave Cuba billions of dollars worth of aid during their long alliance and at the height of their dominance, stationed thousands of troops and advisers on the island.

When the Soviet Union unraveled in 1991, the aid dried up, Cuba plunged into a deep economic crisis and then-leader Fidel Castro accused his former communist ally of betrayal.

That bitter experience has not been forgotten in Havana and may contribute to Cuban reluctance to do anything more than business deals with the Russians, said Frank Mora at the National War College in Washington.

"As I've heard dozens of times over the years from Cubans on the island, the 'bolos' (Russians) are not to be trusted," he said.

The Soviet collapse also taught the Cubans the danger of depending on one ally, which dovetails with another Russian goal, said Dan Erikson at Inter-American Dialogue in Washington.

"Russia seeks to reassert itself as a world power, which includes a renewed presence in Latin America, while Cuba wants to diversify its economic partners to reduce its dependence on Venezuela," he said, referring to Cuba's current top ally and trading partner.

Venezuela did $2.7 billion in trade with Cuba last year, compared to just $362 million for Russia.

After Sechin's visit, the Cubans described the Russians' talk with Raul Castro as "cordial and friendly" and said both sides stressed the "reactivation of economic ties."

They did not mention possible military ties but on August 10 Raul Castro issued a declaration supporting Russia in its military clash with Georgia after the former Soviet republic sent troops to try to reclaim the breakaway enclave of South Ossetia.

He accused Georgia of launching its attack "in complicity" with its ally, the United States.

Friday, August 22, 2008

Trần Chung Ngọc - Nhưng David Là Ai?

Trong một entry trước đăng bài của bác Charlie Nguyễn, chúng ta đã biết về ông tổ Abraham của các đạo thờ "Chúa Trời". Trong bài này của bác Trần Chung Ngọc, những người chưa đọc "Kinh Thánh", sẽ biết về ông "thánh" David của đạo Chúa là người như thế nào. Tôi đã có dịp đọc "Kinh Thánh" do một ông chủ của một công ty mà tôi đã từng làm việc tặng, nên mấy chuyện "thánh" này tôi cũng có biết qua, khi đọc không khỏi cười thầm. "Kinh Thánh" mà người đạo Chúa dùng có hai phần, Old Testament và New Testament. Phần Old Testament đọc thấy giống như chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm vậy; đối với thời đại hiện nay, nó khó có tính thuyết phục nên ông chủ kia nói tôi khi đọc nên chú trọng đến phần New Testament thôi!

Điều này nói lên cái gì? Ngay cả những người đạo Chúa Tin Lành họ còn không chịu nổi cái tính chất hoang đường trong "Kinh Thánh" của họ nữa mà, nói chi đến những người có đầu óc suy luận logic? Trong khi đó, có cả 8 triệu người Việt Nam, cộng đồng "Công Giáo" đông thứ hai ở Châu Á gọi những nhân vật này là "thánh"! Điều này đồng nghĩa với dân trí Việt Nam thuộc hàng thấp kém nhất Châu Á, nên nước Việt Nam được như bây giờ đã là kỳ tích rồi!

Phần New Testament chủ yếu là Jesus tự nhận mình là con của "Chúa Trời", và các tông đồ của ông ta làm chứng ông ta là con "Chúa Trời". Như vậy cũng được sao?!

-----------------------------------------

Trần Chung Ngọc - Nhưng David là ai?

Tôi không hiểu sao lại lọt vào cái E-mail account của tôi từ một địa chỉ tôi chưa từng quen biết một message như sau, không biết có phải của Linh mục Đinh Xuân Minh hay không:

ThienMinh@Web.de

Sent: Monday, August 04, 2008 7:33 PM

Subject: Fw: CHỐNG CỘNG THEO GƯƠNG ĐAVÍT

Nhân ngày lễ kính thánh Gioan Maria Viêne thành Ars, Linh mục, chúng tôi kính gửi đến qúi vị bài: "Chống cộng theo gương Đavít".

Rất mong sự đón nhận và hỗ trợ tiếp tay phổ biến rộng rãi của qúi vị.

Chân thành cám ơn.

TM

Gần đây tôi nhận được rất nhiều rác rưởi từ những nơi tôi chưa từng biết và chưa từng tham gia như “PhoNang”, “VN-Politics”, “VN-Talks”, “Dien Dan Cong Luan” v..v… Tôi đã dùng “Filters” để đưa những message có subject như trên tự động chui vào thùng rác rồi tự động bị “deleted”. Vậy tôi xin mọi người, trước khi gửi E-mail hãy kiểm soát trước và delete địa chỉ của tôi trước khi gửi để message của quý vị khỏi bị ô nhiễm mùi trong thùng rác (trash).

Nhưng cái E-mail của ThienMinh ở trên là lạ, lần đầu tiên xâm lăng account của tôi, không biết với ý định gì, nhưng dù với ý định gì thì tôi cũng phải cám ơn, vì tôi lại có dịp trở lại chuyện ông thánh David, edit lại một bài về David tôi đã viết trước đây lâu, đã có đăng trên giaodiemonline.com và sachhiem.net.

Nhưng thay vì “tiếp tay phổ biến” tôi xin bổ túc linh mục Minh về nhân vật Đavít, vì linh mục viết rất thiếu sót về nhân vật này. Tại sao? Vì đây là một chuyện rất hay trong Cựu Ước mà các tín đồ Công giáo cần phải đọc từ đầu đến cuối để lấy đó làm gương, và nếu có thể bắt chước được thì bắt chước.

Tôi tin rằng trong giáo hội Công giáo, từ trước đến nay, không thiếu gì những “đức thánh cha” cũng như “Chúa thứ hai” đã theo gương và bắt chước ông vua David vĩ đại của họ trong Cựu Ước. Vĩ đại như thế nào? Chúng ta hãy đọc vài lời ca tụng David của vài bậc lãnh đạo Công Giáo Việt Nam:

Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng Nhân Hi Vọng, trg. 30: "Nơi Đavit, người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messia.."

Đức Ông Trần Văn Khả, Trần Lục, trg. 269: “Chúa Giêsu là dòng dõi Vua Đa-vít, mà Thánh Giuse (cha nuôi Của Giê-su. TCN) là một thành phần (Matthew 1:16). “

Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 66: "Lạy ông Thánh Goakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David." (Trích dẫn từ Kinh cầu ông Thánh Gioakim của Công Giáo); "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương...Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Cầu Bà Thánh Anna của Công Giáo); trg. 73: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Nhựt Khóa của Công Giáo).

Linh Mục Đinh Xuân Minh: “Chống Cộng Theo Gương Đavít”: Ða-vít bảo tên Gô-li-át:

- “Mày mang gươm mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày NHÂN DANH ÐỨC CHÚA CÁC ÐẠO BINH LÀ THIÊN CHÚA CÁC HÀNG NGŨ ÍT-RA-EN. Toàn cõi trái đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, và toàn thể nhân loại sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà nhờ Ðức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Ðức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay tao!”

Đọc những đoạn trên, chắc hẳn ai cũng phải nghĩ rằng nhân vật David phải đặc biệt lắm nên Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và Đức Ông Trần Văn Khả mới hãnh diện khoe rằng Chúa Giê-su của các ông ấy thuộc dòng dõi vua David, và giáo dân Việt Nam mới ca tụng bố mẹ bà Maria của họ là "sang trọng bởi dòng vua David", dù rằng trong Thánh Kinh không có chỗ nào nói là họ là hậu duệ của David.

Những người này coi đời sống hiện tại của họ là đời sống của muông chim cầm thú đáng khinh dễ, và cầu nguyện sau khi chết được về cùng vua David thay vì về gặp tổ tiên, ông bà, cha mẹ v..v.. Tôi thành thực mong cho họ được toại nguyện, chỉ khuyên có một điều: hãy đi học tiếng Do Thái trước khi chết, vì cả Chúa Giê-su lẫn vua David đều không biết tiếng Việt.

Thật ra thì thuở đó Thiên Chúa trong Thánh Kinh không biết rằng quả đất tròn, cho nên không biết đến một nửa địa cầu, không biết có dân Việt trong nửa địa cầu này hay không. Và dù có biết đến đi chăng nữa, thì cách đây mấy ngàn năm, Việt Nam ta chưa mở "cua" VSL: "Tiếng Việt Như Là Ngoại Ngữ Thứ Hai" (Vietnamese as a Second Language). Ngoài ra, họ cũng nên biết rằng, Thánh Kinh đã viết rõ, Matthew 22: 14: "Vì nhiều người được ơn kêu gọi, nhưng chỉ có ít người được chọn" (For many are called, but few are chosen). Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng đã viết rõ trong cuốn Chứng Nhân Hi Vọng: “Chúng ta không được lựa chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi (sic) của Chúa.” Vậy xác suất (probability) của sự về quê hiệp cùng Vua David của họ sau khi chết thật là nhỏ và không tính trước được, vì mọi công trạng để dụ hay cưỡng bách người khác vào đạo, mọi cầu nguyện đều vô ích, tất cả chỉ tùy thuộc hứng của Chúa (ít người được chọn) và lòng từ bi (sic) của Chúa mà thôi.

Đối với Linh Mục Đinh Xuân Minh ở Đức Quốc thì lại khác. Ông ta ngồi bình an ở Đức và hô hào con chiên đi chống Cộng chết bỏ. Cách đây không lâu, ông ta dạy con chiên phải “Chống Cộng Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần”. Viết mà chơi, theo sách lược chụp mũ của những kẻ không đủ khả năng thảo luận trên các chủ đề, tôi cũng chụp mũ Linh Mục Đinh Xuân Minh là “cán bộ Cộng sản” thứ gộc. Nhưng tôi “chụp mũ” với lý luận đàng hoàng chứ chẳng phải là chụp mũ vu vơ không bằng chứng như chúng ta thường thấy trên diễn đàn truyền thông hải ngoại.

Thứ nhất, ông Linh mục Đinh Xuân Minh đã kêu gọi con chiên “Chống Cộng Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần” nhưng ông ta đã thừa biết, vì một người dân thường như tôi đã biết thì tất nhiên một “Chúa thứ hai” như ông ta cũng phải biết, là con chiên của ông ta sẽ hoàn toàn thất bại, vì “Ơn Chúa Thánh Thần” của ông ta thật là vô dụng, không dùng vào được việc gì khác, từ việc nhỏ đến việc lớn, nhất là việc chống Cộng, ngoài việc trong 2000 năm nay chỉ có thể soi sáng cho giáo hội Công Giáo đi vào con đường của “thánh chiến”, “xử dị giáo”, “săn lùng tra tấn và thiêu sống phù thủy”, “làm tiên phong cho thực dân”, con đường “phi luân, loạn luân, độc ác giết người” của một số “đại diện của Chúa trên trần” [Xin đọc “Vicars of Christ” của Tổng Giám mục Peter de Rosa]; con đường “Mafia” [Xin đọc “The Vatican Mafia” của Đức Ông (Monsignor) Rafael Rodríguez Guillén], và tất nhiên con đường “loạn dâm” của nhiều ngàn Linh mục trong nhiều quốc gia trên thế giới, còn tiếp tục kéo dài cho tới ngày nay. Đây là một chân lý Công giáo bất khả phủ bác, vì mới sinh ra, trong bí tích rửa tội, rồi đến bí tích thêm sức, rồi đến bí tích phong chức linh mục v..v.. , bao giờ cũng có Chúa Thánh Thần ngự vào trong người tín đồ, hướng dẫn chỉ đạo cho họ trong mọi hành động. Chúa Thánh Thần cũng hướng dẫn Hồng Y Đoàn trong việc bầu giáo hoàng, cho nên, nếu không có Chúa Thánh Thần, làm sao Giáo hội Công giáo lại có thể có được một lịch sử đầy những sự kiện huy hoàng như trên? Như vậy, mang “Chúa Thánh Thần” ra mà chống Cộng thì chỉ làm trò cười cho Cộng, vì Cộng biết rõ lịch sử giáo hội Công giáo hơn ai hết, và do đó cũng biết rõ là Chúa Thánh Thần vô dụng trong việc chống Cộng. Kết luận: Linh mục Đinh Xuân Minh đúng là cán bộ Cộng sản nằm vùng, chọc quê giáo hội Công giáo bằng câu “Chống Cộng Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần”, giúp cho những kẻ vô thần khui cái hũ mắm Công giáo ra cho mọi người biết. Có phải như vậy không?

Thứ nhì, mới hô hào giáo dân “Chống Cộng Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần”, chưa kịp để thì giờ cho giáo dân thực hiện, vì biết chắc là giáo dân chẳng bao giờ có thể thực hiện được, nên Linh mục Đinh Xuân Minh lại cấp tốc thay đổi chiến lược chống Cộng, ngồi yên vị ở Đức hô hào con chiên hãy “Chống Cộng Theo Gương Đavit”. Nhưng Linh mục Đinh Xuân Minh viết như vậy thì dù giáo dân có theo gương Đavit để chống Cộng cũng đến Tết Congo mới có thể thành công. Tại sao? Này nhé, ông Linh mục viết: Thánh David phán: Còn tao, tao đến với mày NHÂN DANH ÐỨC CHÚA CÁC ÐẠO BINH LÀ THIÊN CHÚA CÁC HÀNG NGŨ ÍT-RA-EN. Toàn cõi trái đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en… Vậy thì, Linh mục Đinh Xuân Minh đã cho độc giả biết Thiên Chúa của Công Giáo là “Thiên Chúa Của Các Đạo Binh”,“Thiên Chúa của các hàng ngũ Israel”,“chỉ che chở cho Israel” mà thôi, trái hẳn với lời dạy của giáo hội Thiên Chúa là “Thiên Chúa rất mực nhân từ, quá thương yêu thế gian”, “Thiên Chúa của nhân loại” v..v...

Mặt khác, nếu các con chiên Việt Nam chống Cộng dại đột mà theo gương Đavit, kéo đến công trường Ba Đình hô to: “Chúng tao đến với mày NHÂN DANH ÐỨC CHÚA CÁC ÐẠO BINH LÀ THIÊN CHÚA CÁC HÀNG NGŨ ÍT-RA-EN. Toàn cõi trái đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en…” thì Cộng sản sẽ cười và bảo nhẹ: “Này, các bạn, các bạn đi lộn chỗ rồi, Thiên Chúa của các hàng ngũ Ít-Ra-En và che chở Ít-ra-en thì chỗ thích hợp nhất để Thiên Chúa ra quân với các đạo binh của mình để tiêu diệt kẻ thù của Thiên Chúa là ở Vatican chứ không phải là ở đây. Tại sao? Vì trong 2000 năm nay, Công giáo đã ra sức bách hại người Do Thái, giết hại không biết bao nhiêu là người Do Thái, nghĩa là người dân Israel. Như vậy, nhiệm vụ “che chở Israel” của Thiên Chúa là phải tiêu diệt Công Giáo chứ không phải là Cộng sản, vì Cộng sản chưa bao giờ bách hại người dân Israel. Như vậy có phải các bạn đã đi lộn chỗ rồi không? Hơn nữa, Thiên Chúa đâu có phải là Thiên Chúa của các hàng ngũ các bạn và che chở cho các bạn là dân Việt Nam mũi tẹt da vàng. Các bạn về đọc lại Thánh Kinh đi, có chỗ nào mà Thiên Chúa biết đến Việt Nam hay kể ra một tên Việt Nam nào đâu. Các bạn đừng có tin ông Linh mục Đinh Xuân Minh, ông ta đánh lừa các bạn đấy. Các bạn hãy sang Vatican hỏi “đức thánh cha” người Đức xem ông ta khuyên các bạn chống Cộng ở đâu khi không còn Cộng và cũng chẳng thấy Cộng ở đâu. Thôi, đi về đi, chính quyền biết các người ngu quá, nghe lời bịp bợm hoang đường, nên chính quyền không chấp. Về nhà thờ hay về nhà mà cầu nguyện đi. Cầu nguyện mãi thì cũng có ngày không còn Cộng sản nữa, vì tất cả đều là “vô thường”, có phải không? Hãy nói với Đức Mẹ là khóc cho nhiều, có thể chúng tôi sẽ mủi lòng và đi rửa tội hết, chuyển độc tài đỏ thành độc tài đen, theo đúng ý của Chúa [đứa nào không tin ta thì a-lê hấp, đi chuyến tàu tốc hành xuống địa ngục], con Mẹ”.

Người nào có thể phản bác được những điều phân tích trên, xin mời lên tiếng.

Bây giờ tôi không viết mà chơi nữa, mà viết thực. Ông Linh mục đặt vấn đề: Tại sao chống Cộng theo gương Đavít? Chống cộng theo gương Đavít là thế nào? Đavít là ai?” nhưng đọc bài của ông, chúng ta thấy ông ta nói để mà nói chứ thật ra ông ta chẳng biết Đavit là ai, cho nên ông ta không hề trả lời câu hỏi của chính ông ta đặt ra: “Đavit là ai?” Về Đavit ông ta chỉ học thuộc có mỗi một chuyện hoang đường trong Cựu Ước, thường chỉ để kể cho trẻ con nghe trong những lớp học “Thánh Kinh” trong nhà thờ sáng chủ nhật, là “cậu bé Đavit đã đánh bại người khổng lồ Goliah” bằng cách lấy một cái ná và một viên sỏi bắn lủng trán của người khổng lồ đang đội mũ đồng che phủ trán tới tận mắt. Thời buổi này mà ông Linh mục còn mang một chuyện tiếu lâm trong Cựu Ước ra để mà dạy con chiên đã lớn rồi chống Cộng.

Tôi chẳng muốn phê bình bài “Chống Cộng Theo Gương Đavit” của Linh mục Đinh Xuân Minh vì trong đó toàn là những điều mê tín nhảm nhí đã lỗi thời mà ngày nay không một người nào có đầu óc còn có thể tin được nữa, thí dụ như: “Đối với Thiên Chúa thì không việc gì Thiên Chúa không làm được“. (Lc 1, 37), có điều kỳ diệu nào Thiên Chúa không làm được!?“ (Sáng thế 18, 14). Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.“ (Máthêu 19, 26).” trong khi chúng ta chẳng ai thấy Thiên Chúa làm được bất cứ điều gì, mà tất cả những tiến bộ của con người đều là do con người làm ra. Thí dụ chuyện cầy cấy, nếu để cho mình Thiên Chúa làm thì cánh đồng lúa sẽ chỉ có toàn là…cỏ dại. Ai biết Thiên Chúa làm được cái gì, xin mời lên tiếng. Xin miễn kể những chuyện thuộc loại ảo tưởng cá nhân, nằm trong những đầu óc thuộc loại mì ăn liền, và không bao giờ có thể chứng minh cho người khác thấy được..

Như trên đã nói, Linh mục Đinh Xuân Minh đặt câu hỏi nhưng không hề cho độc giả biết “Đavit là ai?”. Vậy thì thì tôi đành phải giúp ông ấy miễn phí (free of charge) để bật mí cho độc giả biết rõ về ông thánh Đavit của Công giáo, biết từ đầu đến cuối.

Chuyện vua David "thánh thiện" của ông Hồng Y Nguyễn Văn Thuận nằm trong Thánh Kinh, Cựu Ước, phẩm 1 Samuel và 2 Samuel. Thường thì chúng ta chỉ biết đến câu chuyện quen thuộc "hay nhất" và "xác thực nhất" về vua David mà Linh mục Đinh Xuân Minh kể trong bài “Chống Cộng Theo Gương Đavit” của ông ta: đó là chuyện cậu bé David đã đánh bại người khổng lồ Goliath cao 2 mét 75, đang mặc áo giáp đồng và đội mũ đồng, bằng cách dùng cái ná và viên sỏi bắn vào trán Goliath. Quý độc giả và tôi đều đã coi nhiều phim về những chuyện trong Thánh Kinh và đều đã thấy các chiến sĩ đội mũ đồng che phủ trán xuống tận chân mày, có phải như vậy không? Vậy chúng ta có thể đoán rằng, trước khi dùng cái ná bắn chim của trẻ con để bắn chết Goliath, David chắc hẳn đã phải bắc thang leo lên người Goliath, trật cái mũ của hắn cho hở lộ trán ra, rồi mới lui lại dùng ná bắn sỏi vào trán Goliath. Mới nghe thì câu chuyện có vẻ hoang đường, nhưng Chúa đã ở cùng David nên không có gì mà David không làm được. Thật vậy, trước khi giao chiến cùng Goliath, David đã tuyên bố: "Hôm nay Chúa giao mạng ông cho tôi. Tôi sẽ đánh ông ngã, chặt lấy đầu... Khi Chúa cứu giúp, Ngài không cần đến gươm giáo, vì Ngài là Chúa của chiến trường.." (1 Samuel 17: 46-47). Vậy trước khi đánh nhau với Goliath, David đã biết là mình sẽ thắng, vì thực ra là Chúa đánh nhau với Goliath chứ không phải là David.

Những chuyện lẩm cẩm hoang đường như vậy có đầy dãy trong cuốn sách được gọi là "Thánh Kinh". Chắc chắn là Chúa cũng đã ở cùng ông Nguyễn Văn Thuận, nếu không làm sao ông ta lên được chức Hồng Y. Trước đây, khi ông còn ở trong nhà tù CS thì chắc Chúa chưa ở cùng ông, bởi vì nếu Chúa ở cùng ông thì ông thừa sức đánh bại mấy tên quản giáo để tự giải phóng cái thân tù tội của mình. Chúa cũng chắc chắn là ở với linh mục Đinh Xuân Minh, nếu không thì làm sao trong thế kỷ 21 mà ông ta lại có thể mang những chuyện nhảm nhí chỉ để cho những người bán khai tin để xách động tín đồ.

Nhưng không phải tiểu sử David chỉ có một chuyện “Cậu bé David đánh nhau với người khổng lồ Goliah” để giải trí cho trẻ con như vậy, khi đầu óc chúng chưa phát triển, mở mang, và được bố mẹ bắt phải đi học các lớp dạy Thánh Kinh vào sáng Chủ Nhật ở nhà thờ, mà còn nhiều chuyện hấp dẫn khác. Những chuyện hấp dẫn này mới chính là những chuyện đáng nói trong cuộc đời của David. Điều lạ là những chuyện hấp dẫn này lại chẳng bao giờ được kể, hay giảng dạy, trong nhà thờ. Nếu các linh mục, mục sư không kể thì tôi đành phải gánh vác nhiệm vụ này.

Sau đây chỉ là tóm tắt những chuyện về David được ghi trong Thánh Kinh nhưng cũng có thể coi như là tạm đủ. Warning: Những chuyện này dành cho những người trên 18 tuổi trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ mà Ki-Tô Giáo đủ loại là những lực lượng chỉ đạo tinh thần và đạo đức, những người được hưởng quyền hợp pháp tự do xem và thưởng thức những loại phim từ 1X đến 3X.

Thuở đó, vua của Israel là Saul. Ông có người con gái tên là Michal. David là một sĩ quan chỉ huy trong quân đội của Saul, lập được nhiều chiến công, và nổi tiếng là "tiểu anh hùng dân tộc" vì trước khi được Saul thu dụng, khi còn bé, David đã dùng một cái ná bắn chim của trẻ con để bắn lủng trán người khổng lồ Goliath đang đội mũ đồng. Do đó Michal đem lòng "mết" David (1 Samuel 18:20). Nhưng Saul lại không lấy gì làm hài lòng, vì trước Saul vẫn được dân chúng ca tụng chiến công của mình. Nhưng nay, dân chúng hạ ông vua xuống hàng thứ hai. Họ, nhất là các phụ nữ, nhảy múa và ca hát: "Saul đã giết cả ngàn địch quân, nhưng David lại giết cả vạn" Điều này làm Saul nổi giận và từ đó thường nhìn David với đôi mắt hằn học (1 Samuel 18: 7-9).

David thường hầu cận bên Saul và gảy đàn cho Saul nghe. Một hôm, đang khi gảy thì Saul phóng một cây lao định ghim David vào tường, nhưng David tránh được hai lần như thế (1 Samuel 18: 11) Chúa ở cùng David. Saul không cho David hầu cận mình nữa, giáng chức David và chỉ cho chỉ huy 1000 binh sĩ (1 Samuel 18: 13). David thành công trong mọi việc vì Chúa ở với ông (1 Samuel 18: 14).

Chúng ta đã biết, con gái Saul là Michal đã đem lòng yêu David. Saul bèn gả Michal cho David, nhưng không phải vì thương con, muốn cho con có hạnh phúc, mà để "Gả con cho hắn để dùng con ta hại hắn, như vậy hắn dễ bị người Philistines giết hơn" (1 Samuel 18: 21). Điều kiện của Saul gả Michal cho David là: phải đi đánh kẻ thù của Saul là dân Philistines, và đồ sính lễ của David là 100 miếng da ở đầu dương vật của người Philistines (Thánh Kinh tiếng Việt viết là "dương bì") (1 Samuel 18: 25). [Chúng ta biết rằng, trong giao ước của Chúa với Abraham, Thánh tổ phụ của các đạo Chúa, có một điều kiện: mọi người Nam sau khi sinh ra được 8 ngày đều phải chịu phép "cắt bì" nghĩa là hớt đi miếng da ở đầu dương vật, nếu không thì ô-tô-ma-tic bị loại ra khỏi dân Chúa và khi chết thì ô-tô-ma-tic đi xuống địa ngục. Chúng ta cũng biết, "dương bì" của Chúa Giê-su đã được cùng lúc thờ phụng tại nhiều nơi trên thế giới.]

Vì Chúa ở cùng David nên ông chấp nhận điều kiện của Saul ngay và Chúa đã giúp ông mang về cho Saul không phải là 100 mà là 200 "dương bì" của dân Philistines để làm đồ sính lễ cưới Michal. Biết rõ là Chúa ở cùng David nên Saul càng sợ và căm thù David (1 Samuel 18: 28-29).

Một hôm, David đang gảy đàn cho Saul nghe (Thánh kinh không nói rõ khi nào thì Saul phục hồi chức vị hầu cận và gảy đàn cho vua nghe của David), Saul lại phóng lao định ghim David vào tường. Nhưng lẽ dĩ nhiên, David lại tránh khỏi vì Chúa ở cùng ông, và chạy thoát thân trong đêm tối về nhà (1 Samuel 19: 9-10).

Đọc đoạn trên trong Thánh Kinh, chúng ta phải hiểu là Saul, vua của dân Israel, muốn giết David, chỉ có cách duy nhất là phóng lao vào David khi David ngồi gảy đàn một mình cho Saul nghe. Saul không hề có vạn quân dưới trướng, hay cận vệ, hay lính canh gác v..v.. để có thể sai bắt David và giết đi nếu muốn. Nhưng "nghệ thuật" đọc Thánh Kinh của chúng ta là để tin chứ không phải để suy luận vớ vẩn, xem nó đúng hay sai, có hợp lý hay không v..v... Trong Công Giáo, dùng đến lý trí để suy luận là một tội nặng, vì phần lớn những suy luận đều ngược với những điều "giáo hội dạy rằng". Giáo hội dạy: "hãy quên mình trong vâng phục" và gần đây giáo hoàng Benedict XVI cũng đã dạy lại “Muốn đến với Chúa thì phải tuyệt đối thi hành “đức vâng lời”. Như vậy đầu óc của con người là thừa, giống như những con chiên, người chăn chiên lùa đi đâu thì phải đi đó, người chăn chiên bảo nói cái gì thì nói cái đó, người chăn chiên dạy cái gì thì phải nhắc lại y chang cái đó.. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong bài của Linh Mục Đinh Xuân Minh.

Thế rồi Vua Saul sai quân đến nhà David để bắt đem đi xử tử. Nhờ có vợ là Michal thòng một cái giây qua cửa sổ lúc đêm tối cho nên David tuột xuống trốn thoát (1 Samuel 19: 11,12).

Thánh David chạy trốn đến nhà người bảo trợ là nhà tiên tri Samuel ở Ramah. Biết tin này Saul sai quân đến bắt nhưng cả ba lần quân sĩ đều phải quay trở về vì khi đến nơi thì đoàn quân bị thôi miên rồi nhảy múa ca hát nói những lời tiên tri lảm nhảm như Samuel (1 Samuel 19: 20,21).

Saul bèn đích thân đi đến Ramah để bắt David. Nhưng khi đến nơi, chính Saul cũng bị thôi miên đến độ tự mình lột hết quần áo, trần truồng nằm trên đất suốt một ngày một đêm. Do đó David lại trốn thoát. (1 Samuel 19: 24).

Đến đây chắc các độc giả sẽ cho rằng những chuyện quanh quẩn lẩm cẩm như vậy thì có gì hay mà phải kể. Xin quý vị hãy yên tâm, những đoạn hấp dẫn còn chưa tới. Trên đây mới chỉ là phần mở đầu. Trước khi kể tiếp chuyện ông Thánh David, tôi cần phải nói là, đọc Thánh Kinh là một nghệ thuật và phải có đầu óc suy luận. Bởi vì những cái hay trong Thánh Kinh thường không được viết thẳng ra mà chứa nhiều uẩn hàm (implication). Thí dụ, Thánh Kinh không viết thẳng ra rằng bà Mary không phải chỉ có một con là Giê-su, chỉ nói khéo là “Ông Giu-se chỉ không “tòm tem” với vợ cho đến khi Mary sinh con đầu lòng là Giê-su”. Xin quý độc giả nhớ kỹ: Giê-su là đứa con đầu lòng của Mary. Thánh Kinh cũng không nói thẳng là bà Mary đã sinh nở ít ra là 7 lần mà chỉ viết khéo là: "đây có phải là 4 em trai và các (ít nhất là 2) em gái của Giê-su hay không?". Câu này uẩn hàm bà Mary đã sinh nở ít ra là 7 lần với Giê-su là đứa con đầu lòng. Trong chuyện về Thánh David chúng ta cũng phải "nhìn vào giữa các hàng chữ" mới có thể hiểu hết ý của những tác giả viết Thánh Kinh.

Trở lại chuyện Thánh David. Vì Saul vẫn tìm cách đuổi bắt David nên sau khi Samuel chết, David tụ tập một đám lâu la khoảng 600 người và đi vào vùng đồi núi hoang dã Carmel, sống ngoài vòng pháp luật (outlaws), nói nôm na là làm nghề ăn cướp. Câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ tư cách của David.

Gần vùng David và lâu la tụ tập có một phú hào rất giầu có tên là Nabal, có tới 3000 con cừu và 1000 con dê. Ông ta có bà vợ khôn ngoan và xinh đẹp tên là Abigail. David sai 10 tên lâu la đến "bắt địa" Nabal một các rất lịch sự như sau, nhân danh David: "David vẫn bảo vệ tài sản của Nabal, không đụng chạm gì tới những đầy tớ của Nabal, không tơ hào gì đến của cải của Nabal, vậy xin Nabal hãy cung cấp một ít súc vật và thức ăn thức uống cho tập đoàn của David" (1 Samuel 25: 5-8).

Chúng ta đã biết, trong các thành phố lớn ở Mỹ, có nhiều thương gia cũng được các băng đảng hay Mafia chiếu cố một cách tương tự, nói là để bảo vệ thương vụ của họ, nhưng thực chất là tống tiền. Ở Quận Cam, trong cộng đồng người Việt trước đây sau năm 1975 cũng đã xảy ra chuyện này, không biết bây giờ còn hay không.

Nabal là người cứng đầu, coi David không ra gì, hỏi "Đứa nào là David? và đứa nào là con của Jesse? (bố David)" (Who is David?, and who is the son of Jesse?), rồi từ chối lời yêu cầu của David. Các sứ giả của David quay về và phúc trình sự việc lên David. David nổi giận truyền lệnh cho lâu la: "mọi người hãy đeo gươm vào" và David cũng tự mình đeo gươm, rồi cả đoàn 400 người tiến đến "hỏi tội" Nabal, để lại 200 người giữ hậu cứ. (1 Samuel 25: 13), định giết sạch cả nhà Nabal, không tha một người đàn ông nào hết (1 Samuel 25: 22).

Có người nói cho Abigail biết chuyện, Abigail biết là Nabal đã gây họa vì từ chối không cung cấp thức ăn, nước uống và bánh trái cho một tên tướng cướp nổi tiếng trong vùng. Bà ta bèn vội vàng lấy 200 ổ bánh mì, 2 bầu rượu, 5 con cừu quay, 2 giạ hạt rang, 200 bánh trái vả, chất lên lưng lừa đi đến gặp David, kể tội chồng là người thô lỗ, ngu ngốc, xin David tha cho chồng rồi dâng cho David những phẩm vật mang theo (1 Samuel 25: 23-28). David nhận phẩm vật và chấp thuận thỉnh cầu của Abigail.

Abigail trở về nhà, khi đó Nabal đang tiệc tùng say sưa. Sáng hôm sau Abigail mới kể cho Nabal mọi việc. 10 ngày sau, Thượng đế vật Nabal chết. (1 Samuel 25: 38). Thánh Kinh viết là "struck" nghĩa là "đánh" nhưng tôi dịch là "vật" để phù hợp với quan niệm của người Việt Nam: "Trời đánh, Thánh vật." phù hợp với chuyện Thiên Chúa đã vật nhau với Jacob. Nghe tin Nabal chết, David sai người đến nói muốn cưới Abigail làm vợ. Abigail vội vàng lên lưng lừa (Abigail rose in haste and rode on a donkey), mang theo 5 người hầu, về làm vợ Thánh David (1 Samuel 25: 42).

Đọc đoạn này trong Thánh Kinh, tôi cố vận dụng đầu óc mà vẫn không thể hiểu tại sao "Đức Thánh Cha của chúng ta ở trên Trời" (Our Holy Father in heaven) lại vật chết Nabal. Theo như lời tố khổ của Abigail thì chồng bà ta, Nabal, là người thô lỗ, ngu ngốc. Nhưng thô lỗ và ngu ngốc có phải là một tội để cho Thiên Chúa trừng phạt hay không? Trong lịch sử Công giáo, thiếu gì giáo hoàng thô lỗ, ngu ngốc nhưng Thiên Chúa chẳng vật chết ai cả, chỉ có các giáo hoàng giết nhau mà thôi. [Xin đọc bài “Đây! Các Đức Thánh Cha” trên giaodiemonline.] Ngoài ra, Nabal chỉ có cái tội duy nhất là tiếc của, không chịu đóng hụi chết cho tên tướng cướp David, và đây là quyền của ông ta. Suy đi nghĩ lại tôi thấy luận điệu thần học của ông Hồng Y Nguyễn Văn Thuận quả là có lý: “Chúng ta không được lựa chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi (sic) của Chúa.” "Mầu nhiệm Thiên Chúa" đã vì lòng "từ bi" (sic) mà chọn David, cho nên Thiên Chúa đã vật Nabal chết để tạo cơ hội cho David hưởng, và Thiên Chúa cũng được hưởng chung, vì Thiên Chúa luôn luôn ở cùng David, hương sắc của một bông hoa thuộc loại "cũ người mới ta".

Nhưng đây chỉ là những suy tư trong cái đầu óc thuộc loại "vô thần" của tôi. Tôi hi vọng được nghe lời giải thích của giới chăn chiên Ki Tô Giáo về hành động của Thiên Chúa ở trên. Đừng có mang cái luận điệu bán khai: "đầu óc con người không thể hiểu được những ý định và việc làm của Thiên Chúa" ra nói với tôi, tôi không bao giờ chấp nhận một lối giải thích có tính cách mạ lị đầu óc con người như vậy.

Nhưng đối với giới nghiên cứu Thánh Kinh thì chuyện về David và Abigail ở trên đã gây không ít thắc mắc cho họ và họ đã tìm các giải thích một cách hợp lý. Chúng ta hãy nghe lời bình luận của Frederick Heese Eaton trong cuốn Scandalous Saints, trang 143-144, như sau:

Nếu Thượng đế vật chết Nabal vì Nabal đã gây bất hòa với David thì tại sao ông ta không vật chết Saul vì ông vua này đã nhiều lần định giết David vì ganh tị? Israel thời đó có đầy những tội phạm đủ loại sao Thượng đế không vật chết họ? Thế giới ngày nay cũng đầy những tội phạm, và Thượng đế cũng chẳng vật chết họ, như tất cả chúng ta đều quan sát thấy như vậy. Vậy tại sao Thượng đế lại chọn riêng Nabal để mà vật chết? Câu viết trong Thánh Kinh không phù hợp với các sự kiện.

Do đó, không còn nghi ngờ gì nữa, điều xảy ra là David đã cung cấp cho Abigail một loại thuốc độc nào đó để Abigail đầu độc Nabal. Thánh Abigail chờ 10 ngày sau mới hành động nên tội ác của bà không hiển nhiên. Vậy chính Abigail đã giết Nabal, người mà David ghét, và che đậy vết tích bằng cách nói với kẻ hầu người hạ là Thượng đế đã vật chết Nabal vì cách đối xử của Nabal đối với David. Những nô lệ của Nabal ghét Nabal vì ông ta là người khó tính, cho nên họ tin lời Abigail. Do đó Thánh Abigail và Thánh David đã thoát tội vì thời đó không có những người khám nghiệm tử thi để điều tra những cái chết đáng nghi ngờ.

Ngay sau khi Nabal chết, Abigail đã trở thành vợ của David. Điều này đã được xếp đặt quá kỹ càng chứ chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên.

(If God smote Nabal dead because he had a disagreement with David, why didn't God smite King Saul dead because he tried to kill David out of envy? Israel of that day was full of all sorts of criminals, and God didn't smite them dead. The world today is also full of criminals, and God doen't smite them dead, as we all know from observation. Why, then, would God single out Nabal to smite him dead?

This statement in the Bible doesn't hold up in the light of the facts.

Therefore what undoubtedly happened was, that Saint David gave Abigail some poison to put in her husband Nabal's food. Saint Abigail waited ten days before slipping Nabal the death cup so her crime would be less apparent. Then it was that she killed Nabal, whom David hated, and covered her tracks by telling her servants that God had struck her husband dead because the way of the way he had treated Saint David. The slaves hated her husband too because he was a difficult man to work for, so they were not about to disagree with Abigail. So Saint Abigail and Saint David got away with their crim because there were not coroners in Israel to investigate suspicious deaths.

Immediately after Nabal her husband was dead, Abigail became David's wife. This was all to well arranged to be a coincidence.)

Kể ra cách giải thích trên cũng có lý, nhưng đó là cách giải thích khoa học, dựa trên những sự kiện. Còn cách giải thích thần học thì chúng ta phải tin tất cả đều do "mầu nhiệm Thiên Chúa", Thiên Chúa của ông Nguyễn Văn Thuận và tất nhiên của Linh mục Đinh Xuân Minh.

Chuyện Thánh David còn dài, nhưng tôi xin lướt qua vài đoạn để đi đến câu chuyện hay nhất, hấp dẫn nhất, "thánh thiện" nhất trong cuộc đời của Thánh David: chuyện Thánh David và Thánh Bathsheba.

Sau khi Vua Saul và vài người con trai chết trong trận chiến với dân Philistines, David trở về Israel và về bộ lạc Judah của ông khi trước. Nơi đây ông xưng vua. Một người con của Saul, Ishbosheth, cũng xưng vua ở một vùng khác trong Israel. Nội chiến xảy ra trong nhiều năm. Sau cùng, Ishbosheth bị bội phản nên David lên làm vua cả 12 bộ lạc của Israel. Trước khi lấy Abigail, David còn có một người vợ khác là Ahinoam. Nay lên làm vua ông đòi lại được người vợ đầu tiên là Michal, vì trong khi ông chạy trốn thì Vua Saul đã đem Michal gả cho một người khác. Ngoài ra, David còn có nhiều vợ khác nữa và không ít nàng hầu v..v..

Dinh của David ở Jerusalem. Một hôm, vào buổi chiều, David đi ở trên sân thượng của Dinh. Từ đó ông nhìn thấy một người đàn bà rất đẹp đang tắm. (Tôi đoán chừng khoảng cách giữa người đàn bà đang tắm và David phải gần lắm cho nên David mới thấy rõ nhan sắc của bà ta. Quá 100m thì khó mà có thể thấy mặt mũi một người rõ ràng trừ phi David có một cái ống nhòm. TCN). Thánh David bèn cho người đi hỏi xem bà ta là ai? Thuộc hạ về nói: "Đó là Bathsheba, con gái Eliam, vợ của Uriah. (2 Samuel 11: 2,3).

Thánh David chẳng cần biết Bathsheba là vợ ai, ông cho người triệu Bathsheba vào cung và "hiệp thông" với bà ta (2 Samuel 11: 4), hiệp thông thứ thiệt chứ không phải là kiểu hiệp thông giữa giới trẻ Công giáo với nhau ở Sydney mà ông Hồng Y Phạm Minh Mẫn có đôi phần lo ngại vì cái chuyện “cờ vàng, cờ đỏ”..

Chồng Bathsheba là Uriah, một sĩ quan trong quân đội của David, và đang đánh nhau ở tiền tuyến. Do đó, David tự do đi lại với Bathsheba mà chẳng còn phải e ngại gì.

Đến một hôm Bathsheba báo cho David biết là bà ta đã có mang. Chồng đi vắng mà lại có mang. Giải quyết làm sao đây. Thiên Chúa ở cùng David nên David nghĩ ra một kế. Hắn truyền lệnh cho Joab, tướng chỉ huy ở tiền tuyến, phái Uriah về để cho David hỏi hắn về tình hình quân sự, quân sĩ ngoài tiền tuyến. Hỏi xong rồi, David bảo Uriah hãy trở về nhà với vợ, và ban cho Uriah rượu và thức ăn. Thánh David tính rằng, xa vợ lâu ngày, thế nào Uriah chẳng ngủ với vợ đêm đó. Thế là mọi việc sẽ giải quyết xong, vì cái bầu của Bathsheba bây giờ là do Uriah làm ra. Nhưng Uriah lại là người yêu nước bậc nhất, có tinh thần trách nhiệm bậc nhất, có lương tâm bậc nhất, và cũng là kẻ khùng bậc nhất, không chịu về nhà ngủ với vợ đã xa lâu ngày, mà lại ngủ với đám cận vệ của David ngay ngoài cửa Dinh. Biết chuyện này, David gọi Uriah vào hỏi: "Có phải là ngươi xa nhà đã lâu mới trở về, sao không trở về nhà?” (2 Samuel 11: 10). Uriah trả lời: "Tướng Joab của tôi và các quân sĩ đang ngủ trong lều, cắm ở ngoài đồng. Làm sao tôi có thể về nhà ăn uống phả phê và ngủ với vợ. Tôi chẳng bao giờ làm chuyện này." David ra lệnh cho Uriah: "Hãy ở lại đây thêm ngày nay và ngày mai rồi hãy trở lại tiền tuyến", Rồi David cho gọi Uriah vào, ăn uống cùng Uriah, và chuốc rượu cho Uriah say, hi vọng là Uriah sẽ về nhà hiệp thông với vợ như Davd đã hiệp thông với bà ta khi bà ta vắng chồng.. Nhưng đêm đó Uriah vẫn không trở về nhà với vợ. (2 Samuel 11: 13).

Sáng hôm sau, David ra lệnh cho Uriah trở về tiền tuyến, mang theo một mật hàm cho tướng chỉ huy ngoài đó là Joab. Trong thư, David ra lệnh cho Joab: "Hãy phái Uriah đến chỗ mặt trận nặng nhất rồi rút lui, để mình hắn đối phó và có thể bị chết" (2 Samuel 11: 15: Set Uriah in the forefront of the hottest battle, and retreat from him, and he may be struck down and die.)

David tính không sai, quả nhiên Uriah bị chết ngoài mặt trận, do sự phản bội của tướng Joab, theo lệnh của David. Khi nghe tin Uriah chết, Bathsheba than khóc chồng. Than khóc xong (Thánh Kinh tiếng Việt dịch "when her mourning was over là "hết cư tang") bà về làm vợ của David. Cư tang bao lâu? Không ai biết. Nhưng chắc chắn không phải là 3 năm hay 27 tháng, và cũng chắc chắn là không lâu mấy, vì Thánh Kinh viết là "Bathsheba về làm vợ David (khi đã mang bầu. TCN) và sinh một đứa con" (2 Samuel 11: 27). Như vậy chúng ta có thể đoán rằng chắc thời gian cư tang của Bathsheba có thể vào khoảng 1 giờ, 2 giờ hay 1 ngày, 2 ngày gì đó, giống như Abigail, sau khi chồng chết, vội vã về làm vợ David.

Đại khái chuyện Thánh David chỉ có vậy. Tôi xin để quý độc giả tự mình đánh giá đạo đức của nhân vật David trong Thánh Kinh, một nhân vật mà Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng như Đức Ông Trần Văn Khả đều khoe rằng Chúa Giê-su của các ông ấy thuộc dòng dõi của một "ông vua nổi danh rất đã sinh ra đấng Messiah", một nhân vật mà tín đồ Công giáo Việt Nam thường ngày tụng Kinh Nhật Khóa cầu mong mau "được về quê thật hiệp với Vua David." và ngày nay Linh mục Đinh Xuân Minh dạy các linh mục khác và tín đồ là phải “Chống Cộng Theo Gương David”. Ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại đã có nhiều Linh mục theo đúng gương của David, nhưng không phải để chống Cộng, mà để hiệp thông với vợ con chiên, giống như David hiệp thông với vợ của Uriah. [Xin đọc: “Tuyển Tập Tận Thế” của Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Nguyễn Thanh Sơn]

Chắc phần lớn chúng ta sẽ lên án David là kẻ vô đạo đức, lạm dụng quyền thế, mưu mô giết Uriah để cướp Bathsheba. Nhưng có thật là David cướp vợ của Uriah hay không? Đọc kỹ Thánh Kinh, những điều uẩn hàm trong Thánh Kinh, chúng ta có thể thấy rằng Bathsheba cũng giữ một vai trò quan trọng, có khi còn là chủ chốt, trong cái chết của ông chồng Uriah.

Quý vị có bao giờ thấy một người đàn bà hàng xóm tắm truồng ở ngoài sân để cho quí vị nhìn thấy không? Có thể quý vị may mắn hơn tôi chứ riêng tôi, tôi chưa bao giờ thấy như vậy. Ở Saigon, nhà tôi cũng có một sân thượng. Thỉnh thoảng tôi cũng lên đó hóng mát nhưng chưa nhìn thấy bà nào tắm truồng bao giờ. Có lẽ vì khi đó chưa biết đến Thánh Kinh, chỉ sau khi di tản chiến thuật sang Mỹ vào năm 1975, nhờ ơn Chúa Thánh Thần nên mới biết đến cuốn Thánh Kinh. Nhưng tại sao Bathsheba lại tắm truồng ở một nơi mà bà ta biết chắc là David có thể nhìn thấy từ sân thượng dinh của ông ta? Nếu David nhìn thấy bà thì tất nhiên Bà cũng phải nhìn thấy David. Phải chăng bà đã nhiều lần nhìn thấy David ở trên sân thượng, thấy vóc dáng oai hùng của ông Vua mà khi xưa đã đánh bại người khổng lồ, vả lại cũng thừa biết tính nết của David, tính nết mà cả nước đều biết, nên đã lập kế hoạch để chiêu dụ David?

Xa chồng đã lâu, rồi lại thấy ông Vua hấp dẫn hơn một anh sĩ quan quèn trong quân đội, không biết sống chết ngày nào, nên rất có thể Bathsheba đã có kế hoạch đưa David vào bẫy. Cả nước đã biết David là người hiếu sắc, có nhiều vợ và cung tần mỹ nữ, thêm một người có sao đâu. Do đó, theo như tôi suy đoán thì Bathsheba đã thành công trong mưu toan của mình và do đó, phải đồng gánh trách nhiệm về cái chết của Uriah.

Thánh Kinh kể rằng việc làm trên của David không làm cho Thượng đế hài lòng. Nhưng Ngài cũng chỉ sai Nathan đến dạy cho David một bài học về luân lý qua một câu chuyện dụ ngôn. Dạy luân lý cho David thì cũng giống như nước đổ đầu vịt, vì những đoạn tiếp theo trong Thánh Kinh về David cũng chẳng có gì đạo đức hơn. Chỉ có chuyện ông ta làm vài bài thơ, được gọi là Thánh Vịnh hay Thi Thiên, bài nào cũng buồn chán như bài nào, chỉ có mỗi một chuyện vò đầu bứt tai xưng tội cùng Thiên Chúa và ca tụng Thiên Chúa.

Tôi không hiểu tại sao những người như Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả, lại có thể viết những câu ca tụng Thánh David như trên. Tôi cũng không hiểu tại sao trong kinh nhật khóa của Ca-Tô Giáo lại có những câu ca tụng Thánh David cũng như cầu mong được về quê thật hiệp cùng vua David? Tôi cũng không hiểu tại sao trong thời buổi này mà Linh mục Đinh Xuân Minh còn mang một chuyện trẻ con rất hoang đường trong Cựu Ước ra để mà hô hào dân Chúa chống Cộng. Quý vị lãnh đạo tôn giáo trên đọc Thánh Kinh kiểu gì, hay đó chỉ là nhắc lại những điều đã được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ. Phần chắc là các tín đồ Công giáo Việt Nam chỉ đọc những bản kinh mà các bậc "lãnh đạo tinh thần" của họ đã viết bậy viết bạ ra để giam họ vào trong vòng mê tín, chứ chính họ thì không bao giờ đọc đến Thánh Kinh, nên chẳng bao giờ biết đến sự thật. Tôi tin chắc rằng họ không hề biết David là ai. "Bề trên" dạy đọc thì cứ đọc, dạy cầu thì cứ cầu, chứ không ngờ thực chất của David chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa, hoang dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát. Thật là tội nghiệp cho cả người chăn chiên lẫn con chiên.

Quý độc giả hãy kiếm bài “Chống Cộng Theo Gương Đavít” của Linh mục Đinh Xuân Minh mà đọc. Quý vị sẽ thấy ông Linh mục này quảng cáo hết cỡ cho quyền năng Thiên Chúa của ông ấy, thí dụ như:

- Chế độ Cộng Sản Ðông Âu sụp đổ nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì Chúa Giê-su đã nói: „Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một cắc, nhưng không một con nào rớt xuống đất mà không được Chúa cha cho phép. Tất cả mọi sợi tóc trên đầu chúng con đều đã được đếm và không một sợi nào trong đó rụng xuống, nếu không được Chúa cha trên trời cho phép(Mát-thêu 10, 29-30). Một việc nhỏ mọn như rụng tóc cũng nằm trong qũy đạo tiền định thiên nhiên của Thiên Chúa.

- Cộng Sản Đông Âu sụp đổ là do quyền năng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã an bài định liệu, chứ không phải là một „accident“, một sự ngẫu nhiên…

- Kinh thánh đã dẫn chứng (??) nhiều sự tích ngoài sức tưởng tượng con người. Thiên Chúa làm những việc lạ lùng. Ngài làm những việc trọng thể vĩ đại là để chứng minh quyền năng cao siêu của Ngài cho nhân loại nhận biết mà kính trọng tôn thờ.

- Đối với Thiên Chúa thì không việc gì Thiên Chúa không làm được“. (Lc 1, 37), có điều kỳ diệu nào Thiên Chúa không làm được!?“ (Sáng thế 18, 14). Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.“ (Máthêu 19, 26).

Quý độc giả thấy những câu viết trên là của một người đầu óc bình thường hay là của một người điên? Tất cả những gì ông ta viết về Thiên Chúa của ông ta thật ra chỉ là… “đoán mò” Tại sao? Vì ông Linh mục này rất ngu ngơ, không biết cả đến những điều mà Giáo hội Công giáo thường dạy. Theo sách National Catholic Almanac, trang 360, của Công Giáo, chúng ta có một ông God với 23 thuộc tính (23 attributes):

“Phép tắc vô cùng, vĩnh hằng, thánh thiện, bất diệt, bao la mênh mông, không bao giờ thay đổi, không thể hiểu được, không thể mô tả được, vô tận, vô hình, công chính, thương yêu, nhân từ, cao nhất, khôn ngoan nhất, toàn năng, toàn trí, có mặt khắp nơi, nhẫn nại, toàn hảo, cung cấp tinh thần và vật chất cho con người, tối cao, chân thật”

(almighty, eternal, holy, immortal, immense, immutable, incomprehensible, ineffable, infinite, invisible, just, loving, merciful, most high, most wise, omnipotent, omniscient, omnipresent, patient, perfect, provident, supreme, true.)

Trong 23 thuộc tính nêu trên có vài thuộc tính rất đặc biệt, đó là “không ai thấy được” (invisible); “không ai biết được” (unknowable); và nhất là “không ai hiểu được” (incomprehensible). Giáo lý của giáo hội Công giáo La-mã cũng còn nhấn mạnh là cả 3 ngôi Thiên Chúa đều không ai có thể hiểu được “God Cha không thể hiểu được, God Con không thể hiểu được, God Ma Thánh không thể hiểu được” (The Father incomprehensible, the Son incomprehensible, the Holy Ghost incomprehensible).

Cho nên, tất cả những gì ông linh mục Đinh Xuân Minh nói về Thiên Chúa của ông ấy chỉ là đoán mò, sản phẩm của một con người loạn óc, thần kinh bấn loạn, khủng khoảng tinh thần. “Chúa thứ hai” của các con chiên mà còn như vậy, không hiểu đầu óc của các con chiên ở trong những xóm đạo cờ vàng thì ra sao, tôi chịu không đoán nổi.