Thursday, May 21, 2009

Hardline - Can't Find My Way




Here comes that feeling burning in my heart again
And why's it coming back, back to haunt me again
Well I can't stand it, it hurts me blind
Whatever I can see, you appear on my mind

[Refrain:]
Without you I can't find my way
I can't find my way
All those stormy nights can't wash away the pain
I can't find my way

Here comes that feeling burning in my heart again
Are you ever coming back, back in my arms again
Well I can't stand it, another lonely night
Whatever I can see, you appear on my mind

[Refrain]

Nobody told me it would be easy
Oh life they say can't always please me
Well I can't look back now that she's gone

Wednesday, May 6, 2009

Tỳ Kheo Thích Không Tánh - Tường Trình và Góp Ý Về Chiến Dịch Bất Tuân Dân Sự

Các bạn của Mèo ở Việt Nam không thường nghe mấy vụ "tranh đấu" vì nhiều lý do khác nhau của các tổ chức chống cộng ở hải ngoại nên không hiểu thực hư của bài phỏng vấn trước đây là điều dễ hiểu.  Đáng lẽ Mèo phải giải thích rõ hơn để tránh hiểu lầm.  Nhưng nếu làm như vậy thì cũng mất vui vì mục đích của tác giả là "lộng giả thành chân" để gài bẫy chọc tức mấy người chống cộng để những độc giả hải ngoại không chống cộng như Mèo có một trận cười mà?

Và sau đây là bài tường trình tác giả mượn danh Thích Không Tánh để viết cũng làm Mèo cười bể bụng!

"Bất tuân dân sự" là do những tổ chức trên dịch từ "civil disobedience", một khám phá mới thay cho những hành động cụ thể như "bãi khóa, bãi thị".  Cái tức cười trong câu chuyện này là chính họ cũng biết rằng cái chuyện mà họ làm là ruồi bu, không ai hưởng ứng nhưng họ cũng làm.  Họ phải dùng nhóm từ "bất tuân dân sự" lạ lẫm để cho nó mơ hồ trừu tượng một chút mà trở thành vô thưởng vô phạt!  Không làm được thì cũng không tổn hại đến "uy tín, thanh danh". 

Họ cũng biết rằng nếu một chế độ không thối nát đến độ làm dân chúng bất mãn sâu rộng và cao độ thì sách động quần chúng bất hợp tác, bãi khóa, bãi thị rất khó nếu không muốn nói là không thể.  Nhưng họ biết không được mà tại sao họ vẫn phải làm như vậy? Là vì một số tổ chức của họ xin tiền của những tổ chức chính phủ hoặc tư nhân nước ngoài để hoạt động.  Nếu không nghĩ ra trò này trò nọ để làm báo cáo thì làm sao xin tiền? Chống cộng là một cái nghề ở hải ngoại.  Nghề này cũng đòi hỏi tư duy lắm đó nha.  Làm sao phải bày trò này trò nọ ra đều đều chứ ăn cơm chúa mà không chịu múa tối ngày là chúa sẽ cúp cơm có ngày!

Cái hay của họ lần này là nghĩ ra được nhóm từ "bất tuân dân sự", may ra trúng thì la lên, còn nếu không thì cũng chả ai bận tâm truy cứu "bất tuân dân sự" nó là cái giống gì!  Họ đã che được cái đít của họ (cover their asses) để khi bị té đỡ ê! Họ biết chắc là sẽ té mà, nhưng cũng phải chịu đấm ăn xôi thôi chứ không thì biết làm gì để sống? Ai dám nói những tổ chức chống cộng là ngu đâu?

Theo đài RFA, một cuộc "hội thảo" hưởng ứng lời kêu gọi "biểu tình tại gia, bất tuân dân sự" của ông Thích Quảng Độ đã được tổ chức ở ... Houston!

Đây là một đoạn trong bài báo:

"Hoà thượng Thích Huyền Việt đã đọc lại lời kêu gọi của đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trong đó có đoạn nói về việc bất tuân dân sự, biểu tình tại gia cho người trong nước vào Tháng 5, và với người Việt hải ngoại, Hoà Thượng kêu gọi không về nước du lịch và không gửi tiền về ViệtNam cũng trong tháng 5."

Và sau đâu là bài tường trình của Thích Không Tánh không phải là Thích Không Tánh (Mèo cũng bắt chước mấy cha nội này nó chuyện khó hiểu chơi!)

Chữ viết tắt:

PTTPGQT: Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (trụ sở ở Paris)

VVA: Võ Văn Ái (phát ngôn viên PTTPGQT)

VPII VHĐ: Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (trụ sở ở Westminster, Orange County, Mỹ)

---------------------------------------------------------------------------

PL. 2552 Số : 015-09/ TT/TVT

 

TƯỜNG TRÌNH VÀ GÓP Ý VỀ CHIẾN DỊCH BẤT TUÂN DÂN SỰ

 

Kính bạch Chư Tôn Đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN,

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni VPII VHĐ,

Khâm thừa chỉ đạo của ĐLHT Thích Quảng Độ, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi ghi lại bản tường trình và góp ý này từ băng ghi âm riêng của tôi có ĐLHT cho phép, sau đó có một huynh trưởng GĐPT giúp làm thư ký nghe và ghi lại. Những chi tiết khác là do tôi thêm vào khi duyệt lại bản văn do huynh trưởng ấy ghi.

Bản viết này không phải với tư cách Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội, mà với tư cách của một thành viên chết sống với Giáo Hội, để quý vị lưu ý tính lại xem điều gì nên làm, nên nói, điều gì nên bỏ, nên thay đổi. Tường trình và góp ý này chỉ dành cho nội bộ, xin cẩn thận lưu hành.

Hôm nay, ngày 1 tháng 5, là ngày đầu tiên của chiến dịch “Biểu Tình Tại Gia Bất Tuân Dân Sự” do ĐLHT Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đề xướng. Tôi thu thập một vài báo cáo của mấy Phật tử ngoài Bắc mà trước đây tôi có quen, trong đó có mấy người nhận quà cứu trợ, có trình lên Ngài Viện Trưởng, Ngài rất buồn. Ngài nói: “Vậy mà đạo hữu VVA cứ đoan chắc với tôi là toàn miền Bắc sẽ ngưng hoạt động ngay vào sáng sớm đầu tiên của tháng 5!”

Tôi thưa với ĐLHT: “Dạ cũng có ảnh hưởng một chút nơi những Phật tử đã từng nhận quà tặng thôi bạch HT”. Thì ĐLHT hỏi tiếp: “Ảnh hưởng ra sao?” Tôi đáp: “Mấy cụ già cũng nghe lời con dặn, chịu ở nhà không ra đường, nhưng rồi mấy đứa nhỏ trong nhà đứa thì đi làm, đứa thì đi học, đứa thì đi chơi, nên các cụ nói rằng cái chuyện ở nhà của các cụ cũng không có dấu hiệu gì là biểu tình cả, vậy rồi đến xế thì họ ra đường bình thường, coi như không có gì xảy ra ạ, bạch HT”.

ĐLHT băn khoăn: “Thế thì tinh thần yêu nước chống ngoại xâm ở đâu nhỉ?” Tôi suy nghĩ một lúc rồi đành phải nói thiệt với Ngài rằng: “Bạch HT, thực ra thì dân ta ai cũng yêu nước cả, nhưng việc kêu gọi của ta chưa có đến tai toàn dân. Ngay cả mấy người Dân Oan và Phật tử mang ơn cứu trợ của GH, họ cũng chẳng biết gì về Lời Kêu Gọi của GH hết. Có người còn hỏi con là HT Quảng Độ nào nữa, bạch HT.”

ĐLHT thở dài nói: “Tóm lại là… không ai biểu tình hết à? Thế Dân Oan thì sao?” Tôi e ngại nói thật: “Dạ, chắc không ai biểu tình đâu bạch Ngài. Còn mấy người Dân Oan họ nói Nhà nước đã lấy nhà, chiếm đất của họ hết rồi có nhà đâu mà biểu tình tại gia, biểu tình ngoài lề đường thì có. Một số Dân Oan ở ngoài Bắc còn có ý trách HT, vì nghe đâu họ dự trù tập trung biểu tình đòi đất vào Lễ Lao Động 01/5 thì HT lại kêu biểu tình tại gia, nếu không nghe lời Ngài thì áy náy, mà nghe theo thì phá kế hoạch của họ!”

ĐLHT lại thở dài, trách móc: “Chung qui cũng tại quý vị, cứ bày hết chuyện này đến chuyện nọ rồi bắt tôi phải chạy theo, chạy theo, mà chẳng đâu vào đâu cả!” Tôi thưa: “Dạ, con đâu có bày chuyện, bạch HT. Việc kêu gọi biểu tình tại gia là sáng kiến của đạo hữu VVA đó mà, cái đó HT biết rõ, chúng con trong này đâu có nghiển ra chuyện kỳ cục như vậy.”

ĐLHT quở: “Biết kỳ cục mà sao không ngăn cản, để cho việc nó đến nước này, mặt mũi đâu mà nhìn thiên hạ. Mấy Thầy còn viết cả thư yểm trợ này nọ, thật là tào lao! Mình đã kêu gọi rồi mình lại lên tiếng yểm trợ mình mà không biết xấu hổ!” Tôi liền nói: “Dạ, mấy cái thông tư hay thư yểm trợ cũng do bên ngoài làm hết ạ, chúng con không biết đâu.

Hôm qua có bài phỏng vấn của ông Triệu Thành cũng thấy đăng tùm lum, con thiệt không biết nói sao.” ĐLHT thắc mắc: “Ủa, bài phỏng vấn đó đã phổ biến rồi à? Chứ không phải chỉ để trình riêng cho quý vị VPII thôi sao?” Tôi ngạc nhiên: “Vậy chuyện phỏng vấn có thiệt hả bạch HT?” ĐLHT tiếp: “Thật chứ sao không, nhưng không phải để phổ biến. Ai lại đi phổ biến cái chuyện như thế! Đạo hữu Triệu Thành chẳng phải là người của Thầy Viên Lý cử về sao?”

Tôi đáp: “Dạ cái đó thì con không biết, nhưng chết rồi HT ơi, khi cái bài phỏng vấn đó gửi đi tùm lum rồi thì đạo hữu VVA có dùng email của PTTPGQT phản bác, nói rằng HT đi vắng không có mặt tại Thanh Minh Thiền Viện từ ngày 21/4 đến ngày 30/4 nên không thể xảy ra chuyện phỏng vấn của đạo hữu Triệu Thành! Đạo hữu VVA chỉ nói HT vắng mặt thôi chứ không nói đi đâu, cũng không cho biết lý do”.

ĐLHT rất là giận, Ngài nói: “Làm việc gì kỳ khôi thế! Mà sao chuyện này đạo hữu ấy không cho tôi biết, mới khi nãy… còn nói chuyện điện thoại kia mà, có đá động gì đến chuyện phỏng vấn này đâu. Nếu thấy bài phỏng vấn bất lợi thì tìm cách nào phủ nhận chứ sao lại nói tôi đi vắng đến 10 ngày! Tôi đi vắng là vắng ở đâu? Đã công bố cho toàn thế giới biết là công an canh gác ngày đêm 24/24, nội bất xuất ngoại bất nhập, thế thì tôi đi đâu cả 10 ngày mà công an không biết!”

Tôi nói: “Dạ, chính con cũng ngạc nhiên khi đọc cái thư của đạo hữu VVA nói là HT đi vắng 10 ngày. Con đành phải viết cái email khác, nói đỡ lời để người ta bớt chú ý, con nói rằng ngày 27/4 không có HT ở Thanh Minh Thiền Viện thì làm gì có cuộc phỏng vấn của ông Triệu Thành ngày đó! Nhưng bạch HT, HT nhớ lại xem, có phải là có một đạo hữu tên Triệu Thành đến đây phỏng vấn HT không ạ?”

ĐLHT xác nhận: “Có chứ. Nhưng không phải là phỏng vấn, mà chỉ thỉnh ý tôi mấy vấn đề về biểu tình tại gia thôi. Tôi nghĩ là ông ấy chỉ hỏi để về lại Mỹ trình bày cho VPII VHĐ thôi, đâu có biết ông lại phổ biến như thế!”

Tôi liền sám hối: “Vậy là con phải sám hối HT, vì trong email cố gắng phủ nhận bài phỏng vấn của ông Triệu Thành, con đã nói ông ấy là Giáo Gian, Đặc Tình Về Nguồn của Vẹm TangniHaingoai về phỏng vấn Giáo Gian VC ở Quốc nội đó! Mô Phật, thiệt tình là con không có ý nói HT là… Giáo Gian VC đâu ạ.” ĐLHT gắt: “Thôi, bỏ cái vụ đó đi. Hãy trở lại cái chuyện tôi đây không có ở Thanh Minh Thiền Viện thì tôi đi đâu? Phải trả lời cho xác đáng chứ không quốc tế người ta không còn tin mình nữa.”

Tôi góp ý: “Bạch HT có thể mình nói là HT đi qua Chùa Giác Hoa được không ạ.” ĐLHT vẫn gắt: “Dù là qua Chùa Giác Hoa cũng thế, không hợp lý! Mình đã nói là bị canh phòng nghiêm nhặt, không cho rời khỏi Thanh Minh Thiền Viện, thế thì qua Chùa Giác Hoa ở lại đến 10 ngày là nghĩa lý gì! Tôi thật là muốn đóng cửa tịnh khẩu luôn, để quý vị muốn làm gì thì làm. Cứ bắt tôi phải nói thế này, nói thế kia, mà rồi bao nhiêu sai lầm, mâu thuẫn, hớ hênh, lố bịch… là một mình tôi chịu tiếng hết!”

Tôi thật lúng túng, không biết nói gì để an ủi ĐLHT lúc đó. Tôi im lặng một lúc thì có tiếng điện thoại reo, ĐLHT nhấc lên, nói chuyện với ai đó. Lúc này tôi cũng quay mặt băng để chuẩn bị thâu tiếp khi ĐLHT quay lại. Tôi nghe ĐLHT nói với người kia, không biết có phải đạo hữu VVA không nữa.

ĐLHT nói: “Thế lại phải thay đổi phương cách à?” Người kia tiếp tục nói, Ngài chỉ nghe, ừ hử, rồi Ngài im lặng, cúp điện thoại, có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Tôi rót trà dâng ĐLHT rồi e dè nói: “Tình hình này con nghĩ cứ việc để bên ấy ứng biến, ở đây mình giữ im lặng cũng không ai chấp trách gì đâu, bạch HT”.

ĐLHT trợn mắt ngó tôi một lúc rồi hỏi: “Thế đã có ai đặt vấn đề tôi vắng 10 ngày chưa?” “Dạ chưa ạ. Vì đạo hữu VVA và con cứ chụp mũ nói ông Triệu Thành là công an Vẹm là xong hết, sẽ không ai tin và để ý bài phỏng vấn đó nữa đâu, bạch HT”.

ĐLHT vẫn không yên lòng, Ngài nói: “Nhưng mà cái ông Triệu Thành kia sẽ lên tiếng, hoặc đưa băng ghi âm chứng minh là cuộc phỏng vấn trong ngày hôm ấy là có thực, thì tính sao đây?” Tôi hỏi: “Vậy ông ta có chụp hình quay phim gì không bạch HT?” ĐLHT suy nghĩ một hồi rồi nói: “Có cái máy gì nhỏ nhỏ đạo hữu ấy để trên bàn, không biết là máy gì”. Tôi nói cho ĐLHT yên chí: “Không sao đâu bạch HT, chắc chỉ là máy thu âm, không có hình ảnh, cũng không ghi được ngày tháng. Cho dù ông ấy phổ biến băng thâu âm, ta cũng có thể nói là thời đại kỹ thuật tân tiến ngày nay muốn gán ghép gì lại không được. HT đừng lo, cứ để chuyện ấy cho đạo hữu VVA xoay xở”. ĐLHT im lặng, đôi mày hơi nhíu. Tôi nghĩ Ngài cũng chưa yên tâm.

ĐLHT đứng dậy đi vệ sinh một chặp thì trở lại, vừa đi vừa nói: “Theo ý kiến Thầy thì bây giờ ta phải làm sao, chứ cứ để cho PTTPGQT nói thiên nói địa như thế ở đây mình không có cách trả lời thích đáng đâu!” Tôi hỏi lại: “Bạch HT về chuyện gì ạ?”

ĐLHT nói: “Chuyện biểu tình tại gia, tôi đã nói trước là trong xã hội này không ai hưởng ứng đâu, thế mà cứ nói huyên thuyên, nói phóng đại và lếu láo quá, đến nỗi tôi cũng cảm thấy xấu hổ. Bao nhiêu chuyện trước đây cũng thế, cứ tuyên bố vung vít, chụp mũ vu khống cả Tăng Ni đồng đạo rồi bắt tôi phải nói dối theo, mất hết cả nhân sự, để rồi sao, giờ này nhìn quanh chỉ còn vài người, Giáo Hội đến tay tôi thì chẳng còn thể thống gì nữa, ăn nói làm sao với liệt vị tiền bối và thánh tử đạo!”

Nghe ĐLHT la, tôi sợ quá, cố gắng bào chữa: “Dạ bạch HT, thực ra cũng có vài chuyện đúng chứ không phải tất cả đều dối hết cả. Chẳng hạn Về Nguồn và Thân Hữu Già Lam… là Vẹm thiệt đó thưa ngài”. ĐLHT trừng trừng nhìn tôi quở: “Nói bậy! Thầy cũng nghĩ thế sao?” Tôi ấp úng trả lời: “Dạ thì cũng nghe đạo hữu VVA và quý Thầy trong VPII cáo giác, chắc cũng đúng”.

ĐLHT lắc đầu: “Hoàn toàn không có chuyện các Thầy ở hải ngoại lại thỏa hiệp với CS hay quay lưng với Giáo Hội. Tất cả đều là một thôi, không ai trong chúng ta phản bội hay xoay chiều gì hết. Chỉ là… đạo hữu VVA thuyết phục tôi phải tin và nói như thế. Tôi đã nhiều lần khẳng định tôi không tin. Thế nhưng đạo hữu ấy nói tôi cần phải tin thì mọi người mới tin, mọi người mà tin thì CS cũng sẽ tin, nhờ thế ta mới đạt được kết quả to lớn hơn. Khi ta đạt kết quả rồi, những vị kia sẽ hiểu là sự hy sinh của họ là xứng đáng. Đấy, chính vì không tin mà phải làm bộ tin, giống như khổ nhục kế đấy, mà tôi đã phải xoay lưng với đồng đạo của tôi, chứ đồng đạo nào mà xoay lưng với tôi, xoay lưng với Giáo Hội!

Nhưng bây giờ, càng lúc tôi càng cảm thấy không nên làm thế, dù là khổ nhục kế hay đóng kịch, tất cả những thứ ấy đều là trò ma mị lừa dối của thế nhân, mình không thể làm được, mà đã làm thì cắn rứt lương tâm không sao chịu nổi. Chắc có ngày tôi chết sớm, không kịp giải thích và sám hối với chư vị đồng đạo!” Nghe ĐLHT thố lộ như vậy tôi đau lòng quá nhưng cũng chẳng biết nói gì hơn.

Tôi cố gắng lái qua chuyện khác để Ngài khuây khỏa. Tôi nói: “Con nghĩ mọi người đều bằng lòng hy sinh cho đại sự và sẽ cảm thông nỗi lòng của HT. Con nghe đạo hữu VVA nói năm này cũng rất có nhiều hy vọng về giải Nobel Hòa Bình. Cái vụ biểu tình tại gia, bất tuân dân sự, là một phương thức độc đáo chưa ai nghĩ ra, nhất là đối với chế độ kềm kẹp của bọn CS, phải là trí tuệ vô song mới nghĩ ra được phương thức biểu tình bât bạo động mà lại có sức mạnh ghê gớm có thể làm tê liệt cả guồng máy sắt máu công an trị và bạo lực này. HT có sáng kiến và đưa ra Lời Kêu Gọi biểu tình tại gia trong năm nay thật là đúng thời cơ, vừa được toàn dân trong và ngoài nước ủng hộ, lại gây được tiếng vang với thế giới, chắc sẽ có nhiều triển vọng cho giải Nobel”.

ĐLHT im lặng nhìn tôi một chặp mới nói: “Cái chuyện bất tuân dân sự thực ra cũng chẳng phải là mới mẻ gì, như tôi có trả lời phỏng vấn với cô Ỷ Lan. Nhưng còn cái chuyện biểu tình tại gia thì chẳng phải tôi nghĩ ra đâu. Cũng là do đạo hữu VVA cả. Cái đó, có hay ho vô song trí tuệ gì đâu, phải nói là ý tưởng khùng điên mới đúng! Như Thầy thấy rồi, không kết quả, biết trước là không kết quả, không ai trong nước có thể hưởng ứng được, thế mà cứ rêu rao lên, rồi bắt tôi phải nói thế này thế kia, ban đầu thì cả nước biểu tình một tháng, sau lại bảo tôi sửa lại là chia làm 3 miền mỗi miền 10 ngày! Thật là trơ trẽn, lố bịch quá! Bây giờ chưa biết phải ăn nói làm sao với đồng bào hải ngoại về tình hình êm xuôi chẳng có ai biểu tình trong nước!... Mà sao ở hải ngoại người ta cũng tin là sẽ có hưởng ứng biểu tình tại gia nhỉ? Chứng tỏ họ chẳng hiểu gì nội tình trong nước cả!”

Tôi nói: “Dạ… cũng không phải ngoài đó ai cũng tin cái chuyện biểu tình tại gia đâu HT. Cũng có người viết bài góp ý với ý chê cười mỉa mai, cho là chuyện Cá Tháng Tư, tức là chuyện đùa giỡn không có thật, lại có người viết bài chửi, cho là chúng ta làm chuyện hoang đường…”

ĐLHT liền nói: “Đấy, đấy, chính cái người chửi và chỉ trích chiến dịch biểu tình tại gia mới là người trí đó, còn bao nhiêu đều hoang đường như đạo hữu VVA và VPII cả. À, mà dư luận của Tăng Ni và Phật tử ở hải ngoại thì sao, họ có hưởng ứng hoặc lên tiếng chỉ trích gì không?” Tôi đáp: “Theo vài người cho biết thì đa số đều… ôm bụng cười nhưng không dám cười lớn, vì sợ bị tố cáo là bất tuân hoặc bị chụp mũ là thân Cộng. Cái này là con thăm dò mấy người thân tín, nghĩ gì nói đó, chứ những người khác thì ai cũng khen chiến dịch của HT là độc đáo”.

ĐLHT tự dưng ngồi ngã người ra ghế, mắt đăm đăm nhìn tôi một hồi rồi hỏi: “Bây giờ KT có cách gì điều chỉnh chiến thuật của việc biểu tình tại gia không?” Tôi đáp: “Dạ nhất thời thì con chưa nghĩ ra. Để con về suy nghĩ và bàn với mấy anh em khác xem rồi hội ý với quý ngài VPII…”

ĐLHT xua tay nói ngay: “Thôi, đừng có bàn với bên đó nữa, nay giải quyết chuyện trong nước, bàn với người trong nước, ta nắm được tình hình rõ ràng, ngoài đó chỉ ăn hại và bày chuyện tào lao làm cho tôi mang tiếng chứ biết gì mà bàn!” Tôi thực không ngờ ĐLHT lại mất niềm tin nơi quý vị hải ngoại như vậy. Tôi cố gắng an ủi Ngài: “Dạ thì trong ngoài hội ý với nhau biết đâu tìm ra cách hay.”

ĐLHT lại khoác tay nói: “Thôi, tôi bảo thôi. Bây giờ khẩn cấp tìm cách giải thích cho ổn cái vụ không ai hưởng ứng biểu tình tại gia kìa! Tôi hỏi KT nầy, có cách nào mình ra thông báo nói lại rằng… xét vì dân ta đang còn khó khăn kinh tế, mới biểu tình tại gia trong ngày 01/5 đã thấy chật vật và đói loạn cả lên rồi, do vậy, Viện Hóa Đạo rút lại lời kêu gọi, được không?” Tôi đáp một cách e dè: “Dạ chắc cũng được, nhưng có lẽ phải thêm vài ngày nữa, chứ mới một ngày mà rút liền e không hay. Để con phối hợp mấy ý kiến của mấy Thầy trong GH vừa nói chuyện với con hồi chiều mà đưa ra báo cáo, sau đó Viện Hóa Đạo dựa vào báo cáo này mà rút lại Lời Kêu Gọi.”

ĐLHT hỏi nhanh: “Có à, có nhiều ý kiến mỉa mai hả, Thầy nghe họ nói sau?” Tôi nói: “Dạ… có thầy nói với con là đề nghị HT nên nói rõ hơn về giờ giấc biểu tình tại gia, chứ đừng có nói tổng quát là suốt một tháng, không ai áp dụng được”. ĐLHT mừng lắm, hỏi dồn: “Giờ giấc thế nào?” Tôi đáp: “Chỉ là mỉa mai thôi mà HT”. ĐLHT lại thúc: “Thì cứ nói, trong cái mỉa mai có khi cũng dạy cho mình bài học đấy!” Tôi liền đáp: “Dạ họ nói là mình phải đưa ra giờ biểu tình tại gia là từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng, như vậy thì toàn quốc, ngay cả Thủ tướng, Chủ tịch nước, Tổng bí thư, chính quyền các cấp, hàng triệu đảng viên, đều hưởng ứng và áp dụng được cả, bạch HT”.

ĐLHT nhíu mày một chút, rồi bỗng cười ra tiếng thoải mái: “A, ý tưởng này còn độc đáo vô song, hơn cả ý tưởng mà đạo hữu VVA nghĩ ra nữa kìa!” Thế là thầy trò chúng tôi cười ra nước mắt. Rồi ĐLHT lại tiếu lâm nói: “Thế thì bớt giờ nhưng tăng tháng. 24 giờ thì rút lại còn 8 giờ, một tháng thì tăng lên thành 12 tháng, hay 12 năm cũng được, ai cũng hưởng ứng Lời Kêu Gọi cả. Thật là hay!”

Thấy ĐLHT cười giòn, tôi hứng thú diễu tiếp: “Biểu tình tại gia với giờ giấc như vậy tuy cũng không kết quả gì, nhưng ít ra cũng khả thi, khả thi cho toàn dân, toàn quốc; còn biểu tình đúng theo Lời Kêu Gọi của đạo hữu VVA thì vừa không kết quả, lại vừa không khả thi!” Thầy trò tiếp tục cười, một lúc thì Ngài dịu lại, nghiêm giọng hỏi: “Đó chỉ là châm biếm thôi, thế còn ý kiến gì thành thực xây dựng hơn, KT nói nghe xem?”

Tôi nói: “Đây là mấy huynh trưởng GĐ Phật tử, họ cũng bàn về chuyện đổi giờ biểu tình sang ban đêm, nói là Lời Kêu Gọi biểu tình tại gia của HT được ủy ban bài trừ tệ đoan xã hội ở Hà Nội ghi nhận là rất tích cực, có thành tích đóng góp cho nhà nước dù rằng việc biểu tình chưa xảy ra, vì lúc đó mới trong ngày 30/4, chưa vào tháng 5. Là bởi vì trong khi toàn quốc hưởng ứng biểu tình tại gia từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng thì các vũ trường, các quán nhậu sẽ vắng khách, các gái điếm sẽ chết đói lo bỏ nghề. Đây là điểm tích cực để chống tệ đoan xã hội. Ngược lại, cũng rất nhiều người oán trách HT, trong đó có khách làng chơi, bọn thanh niên ăn chơi nhảy đầm và đua xe, các sinh viên đi làm đêm để kiếm tiền học, các em bé đi lượm rác kiếm sống, các người khuân vác ở chợ và bến sông, các người bán hàng rong, vé số, những người phu quét đường, hốt rác, v.v… tất cả những ai sinh nhai và hoạt động ban đêm đều oán trách HT nếu Ngài đổi giờ biểu tình sang ban đêm”.

ĐLHT trầm ngâm nói: “Thế… nói cho cùng thì biểu tình tại gia nguyên một tháng từ sáng đến tối sẽ bị toàn dân oán trách rồi! Tất cả những ai kiếm sống và hoạt động ban ngày ban đêm gì cũng oán trách hết! Đấy, đấy, tôi đã nói mà không tin! Làm sao mà áp dụng được!” ĐLHT tỏ vẻ chán nản lắm, Ngài nói tiếp: “Các ý kiến đó đều là châm biếm, mỉa mai, nhưng họ thật đấy, vì họ nắm được tình hình trong nước, còn quý vị bên kia thì thật là chẳng biết gì cả.

Nghe nói các tổ chức chính trị, đảng phái, tôn giáo, cũng ca tụng chiến dịch biểu tình tại gia một tháng, chẳng lẽ họ cũng mù tịt về dân tình khốn khổ trong nước nên nhắm mắt để đạo hữu VVA lôi đi đâu thì đi hết sao? Cũng phải suy xét một chút chứ! Không nắm được thế dân thì chống Cộng biết bao giờ mới thắng nhỉ? Thôi, chắc chúng ta phải tự thảo một văn bản rút lại Lời Kêu Gọi Biểu Tình Tại Gia trước khi kết quả quá rõ ràng tại miền Bắc trong 10 ngày đầu của tháng 5. KT và VĐ cố gắng lo chuyện này sớm chừng nào tốt chừng đó. Nhưng lần này, tuyệt đối không tiết lộ cho đạo hữu VVA nhé. Chúng ta cứ làm, rồi tôi sẽ nói chuyện với đạo hữu ấy sau”.

Tôi ngồi cứng người chẳng biết nói gì nữa. ĐLHT cũng thấy mệt trong người nên Ngài bảo tôi về để Ngài nghỉ ngơi. Trước khi tôi ra cửa, Ngài có dặn tôi về viết lại những gì đã trao đổi, gửi đến quý vị VPII VHĐ, nhưng xin quý Ngài đặc biệt lưu ý điểm này: khoan cho đạo hữu VVA đọc bản tường trình này. Không phải là chúng ta che dấu gì với đạo hữu ấy, nhưng có những điểm chúng ta cần thảo luận kỹ càng trước khi cho đạo hữu ấy biết.

Trên đây là những lời trung thực ghi lại từ băng ghi âm của tôi.

 

Trân trọng kính trình,

Chùa Liên Trì - ngày 01 tháng 05 năm 2009

Tổng Vụ Trưởng Từ Thiện Xã Hội –VHĐ

(ấn ký)

Tỳ Kheo Thích Không Tánh

 


2009/5/2 Deep Throat <deep.throat@free.fr>

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin long trọng tuyên bố tính cách giả mạo của bài viết gọi là "Phỏng vấn HT Thích Quảng Độ về tháng 5 Bất tuân dân sự" của cái ông gọi là "Triệu Thành, pháp danh là Nhật Điều Ngự, vốn là Phật tử ở quận Cam, nhân chuyến về Việt Nam thăm cha, đã ghé vào Thanh Minh Thiền Viện để bái kiến và phỏng vấn nhanh Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vào ngày 27.4.2009".

Đây là sự dối gạt vô liêm sỉ khi tiếm danh Đại lão Hòa thượng để nói lên tà kiến của người phỏng vấn.

Lý do dễ hiểu để vạch trần sự dối gạt này là ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỘ KHÔNG CÓ MẶT TẠI THANH MINH THIỀN VIỆN từ ngày 21.4.2009 cho đến hôm nay là ngày 30.4.2009. Như vậy thì làm gì có chuyện phỏng vấn tại Thanh Minh Thiền viện hôm 27.4 ?!

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế

free counters

Monday, May 4, 2009

Triệu Thành - Phỏng Vấn Hòa Thượng Thích Quảng Độ

"Có Bao Giờ Em Hỏi?" sẽ còn tiếp tục, nhưng bữa nay đọc bài này bên sachhiem.net thấy tức cười quá nên muốn chia sẻ với bạn bè trước.  Số là gần đây ai cũng nghe vụ chống đối khai thác quặng ở Tây Nguyên.  Vụ chống đối này theo Mèo nghĩ là hết sức có lý và chính đáng.  Nhưng cũng có một số người hay tổ chức mà cá nhân Mèo nghi ngờ tư cách cũng nhào vô ăn có.  Một trong những tổ chức đó là "Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế" của ông Võ Văn Ái có trụ sở ở Paris.  Các bạn hãy xem bài báo này trước để biết hoàn cảnh đằng sau của cuộc phỏng vấn khôi hài sau đây.  Tác giả "Triệu Thành" của bài phỏng vấn này theo Mèo nghĩ có thể là một người có nick "Cẩu Tặc" trong forum của Việt Weekly ngày xưa.  Rất tiếc là Mèo quên bẵng không sưu tầm những bài viết của người này ở Việt Weekly để giới thiệu với các bạn.  Bây giờ bên đó đã bỏ hết rầu!

Hôm nay đọc được bài này rồi nhớ lại văn phong của "Cẩu Tặc" mà không khỏi cười một mình.  Cha nội này vừa thâm vừa hài không chịu nổi!

Các bạn nào chưa quen với cái kiểu viết của người này thì đọc từ từ cẩn thận nha! Báo trước rồi đó!

------------------------------------------------------

PHỎNG VẤN HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỘ

VỀ THÁNG 5 BẤT TUÂN DÂN SỰ

Triệu Thành

-----------------------------------------------------------

Lời dẫn: Ông Triệu Thành, pháp danh là Nhật Điều Ngự, vốn là Phật tử ở quận Cam, nhân chuyến về Việt Nam thăm cha, đã ghé vào Thanh Minh Thiền Viện để bái kiến và phỏng vấn nhanh Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vào ngày 27.4.2009. Vì không phải là ký giả chuyên nghiệp, ông Triệu Thành nhớ gì hỏi đó. Tuy vậy cũng đã được HT Thích Quảng Độ trả lời đầy đủ, xin chia xẻ với những ai quan tâm vấn đề “Bất tuân dân sự” để nắm vững vấn đề mà áp dụng, tùy theo hoàn cảnh quốc nội hay hải ngoại. (Đại diện nhóm Thanh Niên VN Quận Cam)

-------------------------------------------------------------------------

Gửi các em Thanh Niên VN Quận Cam.

Trước khi ghi lại cuộc phỏng vấn, anh kể mấy chuyện ngoài lề trước khi được bái kiến Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ. Thanh Minh Thiền Viện bây giờ là một cơ sở nguy nga, hình như được xây mới hoàn toàn chứ không phải tu bổ tân trang. Trước Thanh Minh Thiền Viện có hai quán cà phê. Anh bảo xe ôm dừng ở quán chênh chếch thay vì chọn quán đối diện. Ngồi uống liên tục 2 ly cà phê và một ly đá chanh để có thời gian theo dõi tình hình, xem có ai theo dõi mình không. Trong quán anh ngồi thì chỉ có mấy anh thanh niên chơi bi da. Nhạc Mỹ mở ầm ầm. Chẳng có ai khả nghi là công an. Yên tâm rồi, anh mới cẩn thận bước ngang cái quán đối diện thì thấy quán này còn ế hơn quán kia. Chẳng có ma nào ngồi đó cả. Vậy mà cứ tưởng công an bao vây Thanh Minh Thiền Viện, nội bất xuất ngoại bất nhập! Hay là giờ này bọn công an đi ăn trưa rồi ngủ trưa hết vậy ta? Anh tự hỏi như vậy. Cuối cùng anh cũng băng qua đường để vào Thanh Minh Thiền Viện. Lúc đó đã quá 2 giờ trưa rồi. Cổng Thiền Viện không khóa. Anh tự nhiên đẩy vào, đi tuồng luông qua sân nhỏ, vào khu vực phòng khách, gặp một cụ già, giống như là một lão ni cô, nhưng không biết có phải là người xuất gia không nữa. Anh chắp tay chào, bà cụ cũng lịch sự chắp tay chào lại và hỏi. Anh trình bày nguyên do thăm viếng, có sự giới thiệu của TVL bên Mỹ. Bà cụ dường như cũng chẳng để ý chuyện ai giới thiệu, nhấc cái phone lên gọi, một chặp thì bà cụ hướng dẫn anh lên phòng của Đại lão Hòa thượng trên lầu. Anh gõ cửa, liền được mở.

Triệu Thành (TT): Kính bạch Đại lão Hòa thượng, con vâng mệnh chư tôn đức…

HT Quảng Độ (HTQĐ): Khỏi, khỏi khách sáo. Đạo hữu ngồi đi.

TT: Bạch HT, con không có nhiều thời gian, xin đi thẳng vấn đề: mong HT chỉ giáo tường tận hơn về phương thức áp dụng “bất tuân dân sự” trong tháng 5 theo Lời Kêu Gọi của ngài.

HTQĐ: Tôi đã trả lời cụ thể cho phóng viên Ỷ Lan của PTTPGQT về phương thức rồi mà? Bên ngoài cứ theo đó mà triển khai ra. Ở đây chỉ nói chiến lược, còn chiến thuật thì quý vị tùy nghi chứ.

TT: Bạch HT, chính vì tùy nghi về chiến thuật mới có nhiều vấn đề nẩy sinh khi thực hành, dễ sinh những mâu thuẫn, trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Vì thế, con xin mạn phép đặt một số câu hỏi cụ thể để bái lĩnh chỉ đạo trực tiếp của HT. Được không ạ?

HTQĐ: Được, vậy đạo hữu cứ hỏi.

TT: Bạch HT, trước hết xin HT cho biết là 3 yêu cầu trong “Lời Kêu Gọi Một Tháng Biểu Tình Tại Gia” của HT là yêu sách tuyệt đối buộc lãnh đạo CSVN phải giải quyết một lúc hay là cũng được phân chia làm 3 giai đoạn như cách HT phân chia việc biểu tình cho 3 miền (Bắc, Trung, Nam mỗi miền 10 ngày theo thứ tự từ ngày 01.5 đến 31.5)?

HTQĐ: À… à… thật ra thì 3 yêu cầu chỉ nhằm vào một mục đích thôi. Thế nên, Đảng và Nhà nước CSVN tốt nhất là phải đáp ứng cùng lúc cả 3 yêu cầu đó chứ không nên kéo dài. Miễn sao trong vòng tháng 5.2009 phải giải quyết cho xong. Đây, đây, để tôi lấy văn bản ra mà bàn cho rõ ràng, này nhé:

“1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc. Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.”

TT: Thế nhưng, kính bạch HT, yêu cầu 1 và 2 thì Đảng và Nhà Nước chỉ cần giải quyết trong vòng một vài ngày, còn yêu cầu thứ 3 thì… dù khẩn cấp cách mấy cũng có thể tốn vài tháng, thậm chí… vài năm đó, kính HT.

HTQĐ: Sao mà lâu thế! Đã nói là “khẩn cấp” thì phải làm cho nhanh chứ! Đạo hữu nghĩ sao mà cho rằng sẽ kéo dài đến vài năm? Không sao, cứ thẳng thắn mà trình bày, tôi sẵn sàng lắng nghe mà. Chúng ta đang thực hiện dân chủ từ việc nhỏ đến việc lớn.

TT: Bạch ngài, một đại hội đại biểu toàn dân theo yêu cầu thứ 3, có cả trong và ngoài nước. Ở trong nước, Đảng và Nhà nước sẽ nói rằng Quốc hội đại diện toàn dân, vậy thì Đảng và Nhà nước triệu tập Quốc hội là đủ. Nếu lúc đó chúng ta không đồng ý, sẽ có những yêu cầu đưa đại biểu từ khắp các cơ quan, tổ chức, dân sự và quân sự, tôn giáo và xã hội, chính trị và kinh tế, v.v… Vậy, vấn đề đề cử đại biểu sẽ như thế nào ạ? Mạnh tổ chức nào đề cử người của tổ chức đó hay là có sự sàng lọc, kiểm tra của Đảng và Nhà nước? Nếu Đảng và Nhà nước duyệt xét lý lịch và tư cách đại biểu chắc chắn sẽ tốn nhiều thời gian; còn nếu chúng ta yêu cầu đừng duyệt xét gì cả, cứ nhận bừa tất cả đại biểu nào tự ý ghi danh, hoặc được tổ chức của họ đề cử, vậy thì số lượng đại biểu chỉ tính trong nước không thôi có thể lên đến cả triệu người, làm sao trong thời gian khẩn cấp có thể tổ chức Đại hội được ạ? Đó là chưa nói làm sao có thể phòng ngừa gián điệp Trung Cộng cài vào trong số hàng triệu người ghi danh không cần kiểm soát?

HTQĐ: À… à… chuyện này đối với Đảng và Nhà nước cũng dễ giải quyết thôi. Họ đã kiểm soát và nắm lý lịch của toàn dân từ hơn nửa thế kỷ rồi, cho nên họ sẽ sắp xếp đại biểu nhanh lắm.

TT: Vậy giả như họ loại trừ hết thành phần đối lập, không chấp nhận tư cách đại biểu của thành phần này thì chúng ta làm gì?

HTQĐ: Cái đó thì dễ biết lắm, nếu họ làm vậy thì cả triệu người đối lập sẽ đứng ở ngoài mà biểu tình, yêu cầu Đảng và Nhà nước cho vào hội nghị. Cái này còn gây áp lực nặng nề hơn cho họ, cho nên họ phải cân nhắc kỹ mới được.

TT: Con sợ rằng nội cái chuyện thanh lọc và sắp xếp đại biểu trong nước cho đến khi thỏa đáng yêu cầu của HT cũng phải tốn nửa năm đấy ạ. Đó là chưa kể đến đại biểu ngoài nước. Làm sao trong thời gian “khẩn cấp” mà có thể triệu tập được những người này. Cả chục ngàn tổ chức chính trị, đảng phái, tôn giáo, chuyên gia ở hải ngoại nếu mỗi tổ chức chỉ cử 2 đại biểu không thôi thì cũng có mấy chục ngàn đại biểu đi Việt Nam để tham dự hội nghị. Tiếp đãi và sắp xếp cho hàng chục ngàn đại biểu từ các nước tự do mà đa phần thuộc phía đối lập, liệu Đảng và Nhà nước có tin hết để cho miễn thị thực visa nhập cảnh không? Nếu họ không tin thì chúng ta phải đấu tranh, bắt họ phải tin. Vậy thì lại tốn thêm nhiều thời gian để thỏa đáng yêu cầu của đại biểu ngoài nước. Còn nếu Đảng và Nhà nước bãi bỏ visa nhập cảnh để ai cũng có thể từ nước ngoài đi vào Việt Nam dễ dàng thì liệu có ngăn được tình báo Trung Cộng xâm nhập không ạ?

HTQĐ: Đạo hữu thật là quá lo xa! Nói cho cùng, đạo hữu cũng mắc cái bệnh giống như mấy người nào đó ở hải ngoại, cứ đặt vấn đề “khả thi hay không khả thi”! Đạo hữu có nghe phát ngôn nhân của tôi trả lời điều này chưa? Đây, đạo hữu xem cái Thông cáo báo chí này… Đây, ở đoạn này: “Ông Ái cho hội trường được biết cuộc đấu tranh chống nguy cơ mất nước tùy thuộc vào ý chí bảo vệ non sông của người Việt, chứ không là vấn đề khả thi hay không khả thi của một cuộc Biểu tình Tại gia. Diều hâu sà xuống cắp gà con, thì bản năng bảo vệ con của gà mẹ là xòe đôi cánh che chở gà con như một bản năng tự vệ và chiến đấu. Cũng thế khi quân Minh xâm lược nước ta vào thế kỷ XV, thì nhóm kháng chiến Lê Lợi - Nguyễn Trãi tất cả chỉ có 19 người tuyên lời thề chống xâm lược tại Lũng Nhai đưa việc bào toàn lãnh thổ và chủ quyền tới cuộc toàn thắng. Gà mẹ cứu con hay lời thề cứu nước của Lê Lợi - Nguyễn Trãi không hề đặt vấn đề khả thi hay không khả thi.”

TT: Ý HT là sao ạ, con vẫn không hiểu. Có phải là HT và phát ngôn nhân của ngài đều cho rằng không cần phải đặt vấn đề “khả thi” mà chỉ cần nêu yêu sách, yêu cầu không thôi? Vậy có phải việc biểu tình tại gia một tháng cũng không cần biết là khả thi hay không, chỉ cần gây ý thức, hay nói cho thẳng là chỉ cần gây tiếng vang thôi, phải không ạ?

HTQĐ: Thì cũng gần giống như vậy.

TT: Có nghĩa là… HT và phát ngôn nhân của ngài đều không tin rằng Đảng và Nhà nước CSVN sẽ đáp ứng 3 yêu cầu của Lời Kêu Gọi?

HTQĐ: Tất nhiên như thế rồi, còn phải hỏi? Xưa nay tôi đã từng nói không thể tin CS được, vì họ đều là những người dối trá… Tôi có nói thẳng điều này với Ông Marco Pannella, Dân biểu Quốc hội Châu Âu, và Ông Marco Perduca, Thượng Nghị sĩ Quốc hội Ý trong thư gửi xin lỗi họ khi họ bị ngăn cản đến thăm tôi. Đây, đây, có tài liệu đây, tôi viết thế này: “Tôi xin lỗi Nhị Vị, từ nay trở đi, nếu quí vị có dịp nói chuyện với những người Cộng sản Việt Nam thì xin quí vị nhớ tới điều này: Cộng sản Việt Nam là những người nói dối, lừa đảo, bịp bợm và quỉ quyệt nhất thế giới. Lúc nào cũng như lúc nào, họ hứa đủ thứ nhưng họ không giữ lời và chẳng làm gì cả. Tôi cũng xin nhắc ở đây một câu nói nổi tiếng mà bây giờ người Việt Nam chúng tôi xem như chân lý. Đó là : ‘Đừng nghe những gì Cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm’”. Đấy, đấy, tôi đã nghĩ, đã nói, đã viết như thế thì không thể nào suốt cuộc đời tôi có thể tin rằng người Cộng sản có thể lắng nghe yêu cầu số 1 và 2 của tôi, chứ đừng nói là đáp ứng yêu cầu số 3. Họ mà đáp ứng yêu cầu số 3 thì họ đâu còn là cộng sản nữa, mà còn chứng tỏ rằng họ tốt hơn các tiền triều của Đại Việt ta nữa kia! Bởi vì các triều đại quân chủ xưa sống trong nề nếp, khuôn khổ nhất định, trên dưới một lòng tôn quân, ái quốc, đâu có nhiều đảng phái, giáo hội, tổ chức, phe phái như hiện nay! Thời ấy triệu tập hội nghị quốc dân có khó khăn gì. Còn bây giờ, lung tung thế này đố nhà nước nào mà triệu tập được đại hội đại biểu toàn dân!

TT: Dạ, HT dạy như thế bây giờ con mới hiểu. Nhưng bạch ngài, có phải đây chỉ là điều nói với trong nhà, trong nội bộ giữa ngài và các vị cọng sự thôi, phải không ạ? Chắc chắn là không nên tiết lộ ra ngoài chứ? Bởi vì, theo dư luận xôn xao rầm rộ do phát ngôn nhân của ngài và của VPII VHĐ phát động, có sự yểm trợ của nhiều đảng phái chính trị, thì Lời Kêu Gọi biểu tình tại gia, bất tuân dân sự của ngài rất là dũng mãnh, sáng suốt, là tinh túy trí tuệ vô tiền khoáng hậu, sẽ đẩy CSVN vào thế cùng đường, phải bó tay qui hàng để giao quyền lãnh đạo đất nước cho toàn dân.

HTQĐ: Thế à? Ảnh hưởng mạnh không?

TT: Dạ, tương đối gây tiếng vang rất khá, đến nỗi đài RFA và VOA cũng nhắc đến. Có điều, các ngài trong VPII VHĐ cũng đang còn phân vân một số điều.

HTQĐ: Điều gì, đạo hữu có biết không, cứ trình bày.

TT: Dạ thưa, thì cũng trong yêu cầu số 3, HT yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam triệu tập đại hội đại biểu toàn dân, “bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.” Cái yêu cầu này không biết trong nước sẽ áp dụng ra sao chứ đối với hải ngoại thì thật khó áp dụng. Đã có người nêu câu hỏi: HT giải tán toàn bộ các giáo hội thống nhất hải ngoại, kết án họ là thỏa hiệp CS, không tin đại đa số Tăng Ni và cư sĩ từng phục vụ giáo hội từ trước 1975 đến giờ, vậy có thể nào HT và các vị trong VPII VHĐ chịu ngồi lại với những vị ấy để bàn thảo việc Đạo, việc Nước hay không? Nếu đến giai đoạn nguy cơ của đất nước mà HT và VPII VHĐ vẫn không tin các vị Tăng Ni kia thì thử hỏi… không lẽ ngài tin cộng sản và “các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước” hơn sao? Câu hỏi này là do nội bộ chúng ta đặt ra, chứ nếu mà công chúng đặt ra thì thật chẳng biết ăn nói làm sao!

HTQĐ: Đạo hữu bình tĩnh. Như đã nói ở trước, không làm gì có chuyện tôi đây mà tin CS; đã không tin CS thì cũng không tin những ai thỏa hiệp với CS, dù kẻ đó là Tăng Ni, đồng đạo. Có điều ở đây là vấn đề kỹ thuật. Quý vị VPII bên đó cứ nhấn mạnh chỗ nào cần nhấn mạnh, đừng để bất cứ cơ hội nào cho người ta cật vấn mình. Hãy nêu cái lớn, cái đại thể lên trên thì những tiểu tiết kia chẳng ai có thời giờ để ý đâu.

TT: Mặc dù như thế, những người nghe và tin theo Lời Kêu Gọi của HT cũng có những băn khoăn, thắc mắc của họ. Chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng để trả lời chứ không cũng có lúc bẽ mặt trước quần chúng.

HTQĐ: Còn thắc mắc gì đạo hữu cứ trình bày.

TT: Vậy con xin hỏi HT, nếu Lời Kêu Gọi biểu tình tại gia được toàn dân hưởng ứng, theo lịch trình miền Bắc sẽ biểu tình tại gia từ ngày 01 đến ngày 10 tháng 5, miền Trung từ 11 đến 20 tháng 5, và miền Nam từ 21 đến 31 tháng 5. Đây là biểu tình dân sự, phải không ạ? Có nghĩa là dân biểu tình, còn công an và quân đội thì khỏi, phải không ạ?

HTQĐ: Đúng thế, đúng thế!

TT: Như vậy, có người cho rằng, Lời Kêu Gọi của HT chẳng khác nào trói tay dân mà nới tay cho công an và quân đội. Dân sẽ đói, sẽ chết, còn công an và quân đội vẫn mạnh, cũng có nghĩa là Đảng và Nhà nước vẫn sống phây phây đấy thưa ngài. Công an và quân đội vẫn có thể vào nhà dân để mua hoặc cướp lương thực để sống, và sống dai cho đến hết tháng 5 khi toàn dân trở lại sinh hoạt bình thường. Vì vậy, biểu tình tại gia chỉ giết dân, hại dân, chứ không hại Đảng và Nhà nước, cũng chẳng có gây áp lực gì rõ ràng đối với Đảng và Nhà nước cả, bởi vì thưa ngài, đảng viên và cán bộ giàu lắm, họ không chết đói được, thưa ngài. Ngài đã tin rằng người cộng sản sẽ chẳng nghe ai và chẳng làm gì cả thì cũng đúng, họ sẽ không làm gì cả, cứ tiếp tục ăn chơi, hưởng thụ, lái xe chạy ra chạy vào, đánh golf, nhảy đầm, chơi tennis rồi về nhà nhậu, cũng trôi qua một tháng. Nếu dự trữ lương thực thì đảng viên và cán bộ CS có thể dự trữ cả năm cũng chẳng khó khăn gì, còn dân nghèo của ta thì làm ngày nào có ăn ngày đó, làm gì có chuyện dự trữ. Người ta còn đào sâu vào chi tiết từng thành phần xã hội đối với việc biểu tình tại gia nữa kia, ở đây con không có thời gian trình bày hết.

HTQĐ: Đạo hữu lại quá lo xa nữa rồi. Đã bảo là đừng đặt vấn đề “khả thi” mà! Không đặt vấn đề khả thi có nghĩa là cả tôi và đạo hữu VVA đều biết rằng chẳng có người dân nào lại hưởng ứng việc biểu tình tại gia cả. Thật đấy! Cái chuyện nầy tôi biết rõ hơn đạo hữu VVA cũng như các vị trong VPII, vì tôi sống trong nước. Sẽ không có một ai biểu tình tại gia cả, tôi xác định. Nhưng chúng ta phải nói, nói để cho thế giới chú ý mà gây áp lực với Tàu Cộng và Việt Cộng.

TT: Mô Phật, con… thực không dám tin là HT và VPII có ý đó. Nhưng điều này quả thật cũng là một chiêu thức vô cùng ngoạn mục. Có điều, lỡ như Lời Kêu Gọi và việc phát động rầm rộ ở hải ngoại có tác dụng thực sự thì tình hình sẽ diễn biến ra sao HT và VPII có nhìn thấy trước được hậu quả không ạ? Chẳng hạn, từ ngày 01 đến ngày 10 tháng 5, toàn dân miền Bắc đều hưởng ứng, biểu tình tại gia hết cả, tác động đến cả quân đội và công an, đảng viên và cán bộ, đều đóng cửa ở nhà hết thì sao ạ?

HTQĐ: (cười) Làm gì có chuyện ấy! Nhưng nếu có thì áp lực càng mạnh, càng tốt chứ sao!

TT: Trong tình huống đó, thưa ngài, Tàu Cộng sẽ nuốt chửng miền Bắc trong vòng một ngày thôi, chứ không cần đến 10 ngày, bạch HT! Vì quân với dân đều biểu tình, bó tay nằm nhà, ai lo việc chống xâm lăng?

HTQĐ: Thì ta vẫn còn miền Trung và miền Nam, lúc đó chưa đến lượt biểu tình.

TT: Vậy hai miền còn lại có tiếp tục biểu tình khi đến ngày qui định không, hay là sẽ ngưng không hưởng ứng Lời Kêu Gọi nữa để lo “bảo toàn lãnh thổ” dưới vĩ tuyến 17? Nếu không hưởng ứng thì hóa ra họ thiếu tinh thần yêu nước so với dân miền Bắc, còn nếu vẫn tiếp tục thì 10 ngày kế tiếp sẽ mất luôn miền Trung, rồi 10 ngày sau nữa sẽ mất luôn miền Nam.

HTQĐ: Thì ta sẽ vượt biển ra hải ngoại, tiếp tục đấu tranh chống Tàu Cộng, Việt Cộng.

TT: Mô Phật, như thế xem ra không ổn, vì đồng bào ta vượt biển từ 30.4.1975, đã đấu tranh suốt 34 năm mà chẳng kết quả gì, nay lại thêm một đợt vượt biển, tương lai thật là mù mịt chẳng biết về đâu!

HTQĐ: Đạo hữu yên chí. Nước ta đã từng bị đô hộ cả ngàn năm mà còn lấy lại nước, để có một Đại Việt hùng mạnh, tự chủ. Bây giờ là thời đại văn minh, dân chủ, kỹ thuật tiên tiến, cả thế giới đều biết rõ những gì xảy ra trên nước chúng ta, thì bọn Tàu Cộng không thể nào nuốt chửng chúng ta lâu dài được. Có lúc họ cũng phải nhả ra thôi. Chúng ta phải tin tưởng ý chí đấu tranh của dân tộc.

TT: Vậy HT có vượt biển để ra hải ngoại lãnh đạo đấu tranh chống ngoại xâm không ạ?

HTQĐ: Cái thế tất nhiên là như vậy rồi! Ra ngoài tôi sẽ không còn bị kềm kẹp như bây giờ, tất sẽ có tiếng nói và phương thức cụ thể hơn để đấu tranh. Đồng bào ráng chờ từ tháng 5 đến tháng 10, chỉ có 4 tháng thôi, khi tôi đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 2009 rồi, sẽ lấy lại nước mấy hồi. Lúc đó cả Tàu Cộng và Việt Cộng đều sẽ bị đánh bật ra khỏi non sông của ta.

TT: Bạch ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đoạt giải Nobel Hòa Bình từ năm 1989, đến nay đã 20 năm rồi mà vẫn chưa khôi phục lại được Tây Tạng khỏi tay Trung Cộng.

HTQĐ: Vì ngài ấy chỉ có Nobel Hòa Bình mà không có Rafto như tôi. Về sức đấu tranh, ngài ấy chỉ có từ bi mà thiếu cái dũng. Tôi đây thì có đủ, lại có quốc tế yểm trợ sau lưng, có cái loa của PTTPGQT, có sự quyết tử của 13 thành viên VPII VHĐ, có toàn dân trong nước đã từng hưởng ứng biểu tình tại gia một tháng, không lẽ lúc đó toàn dân không tiếp tục hưởng ứng những gì một khôi nguyên Nobel Hòa Bình của Việt Nam như tôi kêu gọi?

TT: Dạ, dạ… vậy con xin kiếu.

HTQĐ: Ủa, sao gấp thế. Còn một vài việc tôi cần nhờ đạo hữu lắng nghe rồi qua Mỹ trình bày với quý vị trong VPII VHĐ, đạo hữu nán lại một chút.

TT: Dạ, thôi ạ, con phải rời nước trước ngày 30.4 chứ không thôi lịch sử tái diễn, mà lần này mất trong tay Tàu Cộng thì còn khốn đốn hơn. Lúc đó phải vượt biển thêm lần nữa, con không đủ can đảm, vả lại, cũng không đủ sức, vì con đã già rồi. Xin tha cho con. Để con đổi vé mau về lại Mỹ ạ. A Di Đà Phật.

HTQĐ: Thế thì thôi, tôi cũng không miễn cưỡng đạo hữu. (Vừa tiễn ra cửa vừa nói) À, cho tôi hỏi thăm điều này: theo đạo hữu nhận xét thì đồng bào ngoài nước có hưởng ứng Lời Kêu Gọi của tôi bằng cách không gửi tiền và không về Việt Nam trong tháng 5 không?

TT: Bạch ngài có thể có một số ít thôi. Vì cộng đồng chống Cộng ở hải ngoại đã có chiến dịch trước đó là không gửi tiền, không du lịch Việt Nam trong tháng 4. Nếu hưởng ứng chiến dịch của cộng đồng người Việt hải ngoại thì không thể hưởng ứng lời kêu gọi của ngài trong tháng 5. Cho nên cũng có một số tổ chức chính trị cho rằng Lời Kêu Gọi của ngài là “phá bĩnh”, đã vô hiệu hóa chiến dịch tháng 4 của họ. Tuy vậy, so với chiến dịch của cộng đồng hải ngoại thì lời kêu gọi của ngài dễ áp dụng hơn, vì ngài đã có nói trước rồi: “ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả”. Thưa ngài, ai cũng có việc riêng tư cả, và ai cũng khẩn cấp cả, nhất là khi đất nước sắp bị xâm lăng, khi mà mọi người đều phải chuẩn bị cho việc biểu tình tại gia, thì tất cả việc đều trở thành khẩn cấp và bất khả từ chối. Bản thân con là một điển hình. Con đã chọn giải pháp vừa về Việt Nam vừa mang tiền cho gia đình vào tháng 4, như vậy gia đình mới có để dự trữ cho tháng 5. Nhiều người khác có lẽ cũng làm như con, thành ra cả tháng 4 và tháng 5 đều có thể gửi tiền hoặc du lịch Việt Nam được cả. Tháng 4 thì giúp gia đình có tiền dự trữ lương thực để chuẩn bị biểu tình tại gia; còn tháng 5 thì cứ nhân lý do “riêng tư khẩn cấp hay bất khả” mà tiếp tục gửi tiền, tiếp tục du lịch ạ.

HTQĐ: À, thì ra thế! Sao bên đạo hữu VVA và VPII VHĐ không báo cáo cho tôi chuyện này nhỉ? Nhưng mà… cũng không sao, vì như tôi đã nói: đừng đặt vấn đề “khả thi hay không khả thi”. Cứ việc nói, nói, nói… thì đánh động cả thế giới, để ủy ban chấm giải Nobel Hòa Bình họ biết rằng ở xứ sở này có một người từng kêu gọi đấu tranh bất bạo động, qua phương pháp biểu tình tại gia, một “động thái chưa từng xảy ra trên thế giới”.

TT: A Di Đà Phật, con xin chạy ra phi trường ngay ạ.

 

Ghi lại từ băng thâu âm ngày 29.4.2009

Triệu Thành

(Nhật Điều Ngự)

free counters

Friday, May 1, 2009

Có bao giờ em hỏi? Phần III

Tôi định tóm tắt phần cuối cho gọn nhẹ để chấm dứt bài này vì không có thì giờ nhiều nhưng vì nếu tóm tắt thì phải bỏ nhiều chi tiết.  Mà bỏ nhiều chi tiết thì bức tranh toàn cảnh sẽ không rõ ràng và thiếu thuyết phục.  Một bạn đã hỏi tôi rằng hồi thời Rhodes sang Việt Nam (khoảng 1624-1630) thì các đế quốc phương tây đã có ý định và hành động xâm chiếm thuộc địa trên thế giới chưa mà nói rằng Rhodes mơ mộng nhờ lính Pháp giúp chinh phục Việt Nam?

Bạn này nghĩ rằng “cha” đạo Rhodes và những người khác đến Việt Nam đơn giản chỉ để truyền đạo?

Những câu hỏi loại này làm tôi không thể viết tóm tắt được vì phải trình bày thêm về hoàn cảnh lịch sử giai đoạn này.

Xin thưa, thời đại xâm chiếm thuộc địa trên toàn thế giới các đế quốc phương tây đã bắt đầu từ khi những đoàn thám hiểm viễn dương của họ phát hiện ra những vùng đất mới trên thế giới vào cuối thế kỷ 15 rồi. Cụ thể là khi Colombus tìm ra Châu Mỹ năm 1492, tức là 132 năm trước khi Rhodes đặt chân đến Việt Nam.  Các vương triều Âu Châu bỏ ra rất nhiều tiền để đài thọ những chuyến thám hiểm tốn kém như vậy không phải để đi chơi hóng gió biển đâu mà là để tìm đường buôn bán và chiếm hữu đất đai toàn cầu đấy ạ.  Đối với những vùng đất mà dân bản địa còn ăn lông ở lỗ như các đảo nhỏ và Châu Mỹ thì khỏi nói, họ cắm cờ tuyên bố chủ quyền là xong.  Còn đối với những vùng đã hình thành quốc gia với những nhà nước trung ương hay lãnh chúa thì họ từ từ truyền đạo để đồng hóa một đám dân bản địa trước rồi lật đổ chính quyền bằng nội ứng ngoại nhập khi thời cơ đến.

Người Việt Nam chúng ta không có tham vọng lớn nên rất ngây thơ trong những vụ này.  Những phi vụ chiếm lĩnh thị trường và đất đai toàn cầu này rất khó hiểu đối với chúng ta.  Tây nó bảo nó vào truyền đạo thì chúng ta tin là truyền đạo, cho đến khi mất nước vào tay tây chúng ta cũng không biết tại sao!  Và cả mấy trăm năm sau đó nữa, chúng ta cũng chỉ biết than vãn hát: "một trăm năm đô hộ giặc tây", mà không hiểu tại sao chúng ta bị như vậy cả!

Nên nhớ đạo “Công Giáo” không giống các đạo khác vì nó gắn liền với bắt đầu là đế quốc La Mã và các lực lượng thế quyền sau đó.  Nó là một công cụ hữu hiệu để xâm lăng và giữ dân các vùng mới lấy được trong vòng kiểm soát của quân xâm lược.  Họ kiểm soát bằng cách nắm lấy “đức tin” của dân bản xứ.  Những người theo cái đạo này sẽ hân hoan đón mừng đoàn quân xâm lược, họ rất hãnh diện dâng nước của họ cho “Chúa” mà tổ chức đại diện cho “Chúa” trên trần là Vatican (sẽ có bài dâng Việt Nam cho “Chúa” làm thí dụ sau bài này).  Mấy cái chiêu gạt người này tuy đơn giản nhưng rất hữu hiệu và thành công.  Vatican có kinh nghiệm với cái trò này cả ngàn năm nay rồi.  Cái chiêu này dùng được vì nó lợi dụng tâm lý con người, vì ở đâu cũng có người mê tín, hám lợi, ích kỷ và nghèo khó.  Càng nghèo khó, càng lạc hậu kém hiểu biết thì càng dễ dụ! “Công Giáo” ngày nay tồn tại mạnh nhất ở những nước nghèo khó.

Trong trích đoạn của bài dưới đây bạn sẽ thấy hoàn cảnh lịch sử những chuyện xảy ra ở “thánh địa” “Công Giáo” phương tây trước và trong thời Rhodes, sự kết hợp giữa đế quốc thần quyền Vatican và các đế quốc thế quyền, xuất xứ của Rhodes, Dòng Tên mà Rhodes theo, nhiệm vụ của nó, chuyện xâm lăng Nhật không thành của Tây Ban Nha (vì người Nhật ra tay mạnh dạn hơn Việt Nam nhiều! Có ngạc nhiên gì ở đây không?)

Qua những sự kiện lịch sử không thể chối cãi trong trích đoạn đó, chúng ta thấy rằng đối với các vùng đất đã có hệ thống cai trị rõ ràng, sự thành công của quân xâm lược phải dựa vào thành phần dân bản địa đã bị “cha” đạo đồng hóa chịu sự sai khiến của quân xâm lược, nội ứng ngoại hợp.

Trong trích đoạn này cũng cho thấy khi “Công Giáo” cai trị thì họ có dung dưỡng những tín lý khác không, hay sẽ giết thẳng tay. Như tôi đã nói, có nhiều người Việt Nam lên án chuyện những vua Nguyễn cấm đạo, nhưng trong thời buổi đó nếu bạn sang đất “Công Giáo” bên tây dụ dỗ người ta theo bất kỳ cái đạo nào khác nghe theo lời vua nước ngoài mà không nghe lời “Giáo Hoàng” xem bạn có bị đem ra đốt không?

Thời kỳ thế kỷ 16, Tin Lành ra đời và đã bị khủng bố dữ dội bởi "Công Giáo".  Những người này cũng là dân tây và cũng tin vào Jesus đó nha, chỉ khác là họ không chịu cho Vatican nắm đầu thôi thì cũng bị đem đốt rồi đó! Nhiều người Tin Lành tránh khủng bố đã chạy sang Bắc Mỹ sống và đó là nguyên nhân nước Mỹ có rất nhiều người theo Tin Lành.  Không thấy người "Công Giáo" cho việc đốt người không nghe lời họ là ác.  Họ đốt người ta thì họ cũng là "thánh" mà người ta chặt đầu họ, họ cũng thành "thánh" luôn!  Tại sao có cái chuyện này? Vì cái đạo "Công Giáo" này tự đặt họ lên trên tất cả không có ai bầu! Họ tự cho họ cái quyền đại diện "Chúa" cũng do chính họ tưởng tượng ra!

Bạn nghĩ rằng những chuyện này thế kỷ 16 mới có? Nhưng cuối thế kỷ 20 nó vẫn xảy ra vì ở một số nơi người ta đã quen làm như vậy cả ngàn năm nên vẫn còn ngon trớn. Trong cuộc chiến tranh ở Bosnia năm 1995, 40.000 người Bosnia đã bị thảm sát chỉ vì họ là người Hồi Giáo.

Đoạn trích dưới đây còn cho thấy một trò nham hiểm của “cha” đạo bày ra mà Rhodes tường thuật lại. Họ khuyến khích những người cuồng tín “tử vì đạo” để khơi dậy sự phẫn uất cho những người trong và ngoài đạo.  Việc làm này cũng giống như việc họ kích động giáo dân đem kìm, búa, xà-beng đi phá làng phá xóm gần đây. 

Nếu bạn muốn đọc hết bài thì mời vào ĐÂY.

Bữa nay thế thôi nhé!

------------------------------------------

Chính-sách đế-quốc của Vatican

Năm 1493, Giáo-hoàng Alexandre VI vạch một đường Bắc Nam 100 dặm về phía Tây quần đảo Azores làm ranh giới chia địa cầu thành hai; ông dớ dẩn không nghĩ tới việc chia hai thì cần vạch hai đường như vậy chớ không phải một. Ông ra sắc lệnh giao quyền cai-trị và truyền-giáo đến các xứ phía Đông đường ấy cho Bồ-đào-nha, phía Tây đường ấy cho Tây-ban-nha. Phi-châu, Á-châu thuộc quyền Bồ-đào-nha, còn Mỹ-châu thuộc quyền Tây-ban-nha. Các mảnh đất như Goa ở bờ phía Tây bán đảo Ấn-độ, Malacca trên bán-đảo Mã-lai, Macao trên nước Trung-hoa do Bồ-đào-nha lấy được từ trước thì Bồ cai-trị đã đành. Nhưng làm gì với Phi-luật-tân đây, Tây-ban-nha đã chiếm được rồi đời nào chịu nhường cho Bồ dù Cha dưới đất đại-diện Cha trên trời bảo. Tây-ban-nha cãi rằng Phi-luật-tân ở phía Tây vạch chia. Từ Tây-ban-nha cứ đi mãi về phía Tây, vượt qua eo biển Magellan, qua Thái-bình-dương cũng tới Phi-luật-tân thật. Tòa thánh Vatican lờ chuyện ấy đi.

Tuy dâm-dật kém thiên chúa của ông, giáo-hoàng Alexandre VI đã có ít ra là bảy con khi còn làm hồng-y giáo-chủ bên Tây-ban-nha; Lu- crèce Borgia là một trong bốn người con ông có với bà tình nhân tên làVannoza. Ông hối-lộ để được bầu làm giáo-hoàng, phung-phí tiền tứ phương nộp về cho tòa thánh, dùng thế lực, của cải của giáo-hội gây dựng quyền hành, sản nghiệp cho con cái, họ hàng. Khi làm giáo-hoàng, ông đem Lucrèce gả chồng nhiều lần. Một chồng cũ của nàng là Giovanni Sforza phàn nàn rằng ông loạn luân với nàng. Ông rất cần tiền, rất cần hậu thuẫn của các vua chúa dưới quyền ông, lại muốn họ đem võ lực mở mang đế-quốc giáo-quyền của ông khắp thế giới.

Giám mục Henri Chappoulie xuất bản tập nhất bộ sách Aux Origines d’Une Église nói trên năm 1943, khi thực-dân Pháp vẫn còn cai trị dân Việt và các giáo-sĩ đạo Giê-su vẫn còn đầy lòng tin tưởng vào quyền lực của thực-dân ở các nước bị trị. Ông không cần e dè viết trần sự thật ở ngay trang thứ nhất phần mở đầu cuốn sách:

Trong khắp các thời đại lịch sử của nước giáo-hoàng, nước ấy đã coi việc truyền bá tin phúc-âm đến mọi người là nhiệm vụ chính yếu. Vào thế kỷ 16, trong thời-gian nhiều cuộc khám-phá lớn xảy ra, Rô-ma bỗng dưng bị đặt trước những khối lớn nhân loại trải rộng trên những vùng đất chưa rõ to nhỏ bao nhiêu; và chỉ dựa vào phương tiện của mình thì nước giáo-hoàng không tài nào đi đến được. Các giáo hoàng nhận thấy không có cách gì khác để hoàn thành nhiệm vụ tông đồ ngoài cách giao việc truyền bá phúc-âm đến các xứ xa xôi cho những vua chúa nào đã khám phá ra các xứ đó cho Âu-châu thuộc đạo Giê-su Ki-tô. Tàu bè của họ đưa các thừa sai đi, khí giới của họ bảo vệ các thừa sai, những của cải họ mới kiếm ra nuôi nấng các thừa sai. Để trả công cho việc phục-dịch đó, (nước giáo-hoàng) cho vua chúa được quyền vừa lựa chọn những kẻ chỉ huy, vừa điều khiển sự bành trướng sau này của các giáo hội. Quan niệm ấy đẻ ra quyền các vua Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha được bảo-hộ Tây Ấn-độ (châu Mỹ La-tinh), Đông Ấn-độ (xứ Ấn-độ ngày nay), Phi-châu.

(Chappoulie, tập 1, trang xi).

Lịch-sử thế-giới nói chung, lịch-sử Việt-nam nói riêng và gần đây, cuộc chiến-tranh Đông-dương 1946-54, cho thấy đế quốc giáo quyền Vatican đã cộng-tác chặt-chẽ với đế-quốc thế quyền để vừa mê-hoặc dân các nước hậu tiến, vừa dùng võ lực đàn áp họ, cốt để bóc lột họ đúng như chánh-sách Giám-mục Henri Chappou- lie mới nói trên. Tuy vậy, lịch sử còn cho thấy, hai bọn ấy dù nhiều khi cộng tác với nhau, song vẫn có lúc đi lẻ trong công cuộc xâm lăng; dù nhiều khi chung sống với nhau để cùng ăn cướp, song vẫn có lúc ruồng rẫy nhau để thủ lợi cho riêng mình; dù nhiều khi ôn hòa chia nhau chiến lợi phẩm, song vẫn có lúc kình địch nhau hay tranh nhau của cải chiếm được của dân bị-trị. Họ giống như cặp anh chị lấy nhau vì tham lợi, chẳng vì mảy may yêu đương.

Phần 2

Alexandre de Rhodes - Rhodes gốc Do-thái Tây-ban-nha

Tổ tiên Alexandre de Rhodes là người Do-thái ở Aragon, Tây-ban-nha, bị chính-phủ đạo Ca-tô bên ấy ngược đãi nên bỏ chạy sang Avignon, miền Nam nước Pháp ngày nay, nơi ông chào đời năm 1591. Ấy thế mà ông theo đạo Ca-tô, dòng Tên. Ông học tiếng Nhật, định sang đó sinh sống bằng nghề tuyên truyền đạo của mình. Trung-tâm dòng Tên ở Viễn-đông là Ma-cao, nên dù hành nghề ở xứ nào trong vùng, các giáo-sĩ của dòng cũng phải lui tới đó để nhận lệnh cấp trên; phương-tiện di chuyển là tàu thuyền. Gặp khi chính phủ Nhật-bản đang tiễu trừ tới tận diệt người theo đạo Ca-tô, dòng Tên thấy đất Việt là nơi tương đối dễ sống hơn, bèn gửi giáo sĩ sang.

Rhodes gốc dân Do-thái ở Tây-ban-nha. Lịch sử Tây-ban-nha gắn bó với lịch sử đạo Ca-tô. Thế kỷ 8, dân Hồi giáo bên Ma-rốc vượt biển sang chiếm phần khá lớn bán đảo Iberia. Họ dễ dãi với các đạo thờ thần Giê-hô-va nên dân Do-thái và dân Ca-tô sống yên lành dưới quyền họ. Họ lập nên một nền văn hóa cao vượt hẳn văn hóa đạo Giê-su, đem cho châu Âu những ảnh hưởng quan trọng về tư-tưởng, về khoa-học nhưng vào thế kỷ 13, họ suy yếu chỉ còn giữ được một phần đất nhỏ về miền Nam còn phần Bắc do các lãnh chúa phong kiến Ca-tô cai trị. Đến thế kỷ 15, hầu hết các lãnh chúa phong kiến miền Đông Bắc của bán đảo nằm trong địa phận xứ Aragon, còn các lãnh chúa miền Tây Bắc nằm trong phạm vi xứ Castile. Nữ hoàng Isabella cai trị xứ Castile kết hôn với Ferdinand, con vua xứ Aragon. Năm 1479, Ferdinand nối ngôi cha, hai vợ chồng cùng cai trị Aragon và Castile. Đó là lịch sử cuộc hình thành nước Tây-ban-nha.

Đầu năm 1492, vua Hồi-giáo đầu hàng Castile, dân Hồi sống dưới quyền người Ca-tô không được may mắn như dân Ca-tô sống dưới quyền người Hồi ngày trước. Tổng giám-mục Hernando de Talavera xúi nữ hoàng Isabella bắt họ phải đổi đạo. Francisco Jiménez de Cisneros, tuyên úy của nữ hoàng, sau này được thăng hồng y giáo-chủ, đã bày ra kiểu ép đổi đạo tập thể. Dân Hồi nổi lên chống năm 1499 nhưng năm sau loạn bị dập tắt, những người không chịu đổi đạo bị trục xuất sang Ma-rốc.

Dân Do-thái, đồng bào của Giê-su, vốn được dân Hồi đối đãi nhân hậu, bây giờ bị những kẻ thờ ông đàn áp khắc nghiệt. Theo giáo-lý đạo Giê-su, Giê-hô-va cho con là Giê-su xuống chết tạm ở thế-gian mấy ngày để chuộc tội hộ loài người. Ví như dân Do-thái thời xưa có kết tội Giê-su, khiến ông bị quan La-mã đem giết đi, theo giáo lý ấy họ chẳng phạm tội gì với đạo Ca-tô cả mà họ còn có công là đằng khác, vì họ đem cho Giê-su cơ hội để chết theo chương trình của Giê-hô-va. Nhưng nhiều tín đồ đạo Ca-tô, vốn quen uống máu ăn thịt Giê-su, gọi là ăn bánh thánh, đã đua nhau làm thịt đồng bào của ông (dân Do-thái) trong gần hai ngàn năm.

Năm 1478, giáo-hoàng Sixtus IV ban sắc lệnh cho phép Tây-ban-nha lập tòa án đạo để xét xử những conversos (dân Do-thái đã đổi sang đạo Giê-su) phạm tín tội. Năm 1492 Tomás de Torquemada, một converso, quan toàn-quyền tòa án đạo Ca-tô đầu tiên, xúi vua trục xuất hết những người Do-thái không chịu đổi đạo như ông. Một số khá lớn conversos bị tình nghi là giả đổi đạo nhưng tình thực vẫn còn ngấm ngầm theo đạo cũ. Họ bị tố cáo, bắt bớ, tra khảo; khoảng sáu ngàn người bị giết, phương pháp hành hình thường là thiêu sống. Một số conversos trở thành mộ đạo Giê-su; họ theo dòng Alumbrados (Illuminists, Chiếu minh), hay để noi gương giáo sĩ Anh Erasmus, theo dòng Erasmians. Dẫu đi tu cũng vẫn không thoát, họ vẫn bị tòa án đạo truy lùng khiến nhiều người phải bỏ xứ mà đi.

Torquemada, Rhodes gốc đạo Do-thái, tổ tiên vốn bị giáo-hội Ca-tô ngược đãi tàn nhẫn, thế mà họ đổi sang đạo này rồi hành động để tỏ lòng mộ đạo hơn cả những tín đồ Ca-tô gốc là một điều đáng chú ý. Các nhà tâm-lý nói là họ "đồng-hóa với kẻ ăn hiếp"(identifying with the aggressor). Khi đồng hóa với kẻ ăn hiếp mình, nạn nhân cảm thấy mình thuộc phe mạnh, thuộc phe những kẻ đi ăn hiếp, thế là yên ổn trong lòng hơn. Dĩ nhiên những kẻ ấy hoặc không có hoặc bán rẻ lương-tâm nên coi đồng bào của mình cũng là kẻ thù.

Rhodes theo dòng Tên

Rhodes theo dòng Tên (Jesuite). Dòng Tên do Ignatius thuộc tộc Loyola lập ra. Ignatius sinh năm 1491 vùng Basque, Tây-ban-nha. Năm 1521, khi còn là quân nhân, ông bị một trái đạn đại-bác của đối-phương, quân Pháp, gây thương tích ở cẳng phải. Vụ chữa xương gãy không được hoàn hảo nên người nam nhi thọt sinh ra say đắm đạo Ca-tô.

Năm 1534, Ignatius cùng năm bạn đồng song ở Đại-học Paris, Francois Xavier là một, lập ra dòng Tên; năm sau dòng được giáo-hoàng Paul III thừa nhận. Một trong các điều lệ dòng là tuyệt đối tuân lời cấp chỉ huy, nhất là giáo hoàng. Chỉ mấy tháng sau khi thành lập, Ignatius gửi Xavier với ba người nữa sangViễn-đông tuyên truyền đạo Ca-tô. Năm 1556, khi Ignatius qua đời, dòng Tên có độ một ngàn người; năm 1626 có tới 15.544, trong đó có một số đến tuyên truyền tại Việt-nam.

Ignatius lập ra dòng Tên là để củng cố lại sức mạnh của Vatican sau khi giáo hội ấy bị sự xuất hiện của các giáo-hội Tin Lành làm suy yếu. Cuộc thành lập dồn dập các giáo-hội Tin Lành được gọi là phong-trào Cải-cách nên cuộc phục-hồi uy-quyền của giáo-hội Ca-tô được gọi là phong-trào Phản Cải-cách. Dòng Tên là con đẻ quan trọng nhất của phong trào này.

Đầu thế kỷ 15 là thời giáo-hội Ca-tô La-mã đầy uy quyền ở Tây Âu, thủ lãnh giáo-hội sống huy hoàng ở Vatican, tha hồ thị oai tác phúc, dân chúng run sợ đã đành, vua chúa cũng phải kiêng nể họ. Khi lên ngôi, vua phải cố xin xỏ đút lót làm sao cho giáo hoàng công nhận, nếu không, ngai vàng chắc chắn lung lay. Dân gian bị dạy mãi thành ra tin rằng giáo hoàng ở trần thế là người đại diện thiên chúa Giê-hô-va ở trên trời nên một khi người này ngưng công nhận, vua lập tức bị những kẻ thù lợi dụng cơ hội quấy động sự mê tín của quân sĩ, của dân chúng, để chống lại, vua bị lật đổ như không.

Nắm quyền độc đoán trong tay, người ta dễ làm càn, đời là vậy. Muốn xoay tiền dân, giáo-hội Vatican bày ra nhiều mánh khóe, một trong các mánh khóe là bán các món ân-xá (indulgences).

Một khi phạm tín tội, người theo đạo Ca-tô tin rằng họ không có hi vọng lên được thiên đàng sau ngày tận thế, viễn ảnh đời đời bị đầy trong hỏa ngục nằm trước mắt. Tín tội là tội xét theo lòng tin, đương nhiên không vâng lệnh gì của Giê-hô-va cũng là phạm tín tội, một cách để chuộc tội là bỏ tiền ra mua ân xá. Năm 1476, giáo-hoàng Sixtus IV cần tiền nên đặt ra một món ân xá mới, đó là kêu gọi dân chuộc tội cho cha mẹ, ông bà hay người thân hiện đang nằm trong luyện ngục. Dân chất phác tin rằng bỏ tiền mồ hôi nước mắt của họ vào thùng chuộc tội là cứu được người quá-cố thoát khỏi nơi đày ải ấy. Giáo-sĩ Johann Tetzel dòng Đa-minh quảng cáo rằng: "Tiền vừa reng ở thùng này, hồn vung khỏi hỏa ngục ngay tức thì!" (Durant VI, trang 339).

Luther, một giáo-sĩ dòng Augustin, bực bội sẵn về sự thối nát của Vatican, không chịu nổi các vụ làm tiền trắng trợn như thế. Năm 1517, ông liều mạng chống đối, đã dán lên cánh cửa nhà thờ Palast tại Wittenburg một bản 95 điều cần nói. Dân chúng hưởng ứng lời kêu gọi của ông, chống lại giáo hoàng. Ở nhiều nơi trên đất Đức, Pháp, Thụy-sĩ, giáo sĩ đua nhau lập ra các giáo hội Tin Lành, cũng được gọi là các giáo hội Cải-cách. Các giáo hội Tin Lành vẫn tin vào Giê-su, vào Giê-hô-va nhưng không phục tòng Vatican. Vua chúa kẻ theo phe này, người theo phe nọ, bản đồ Âu-châu trở thành một thứ da beo, xứ thì Ca-tô, xứ thì Cải-cách.

Phe Ca-tô kết tội phe Cải-cách là nói sai lời Giê-hô-va, gọi họ là bọn tà-giáo. Phe Cải-cách cãi lại rằng chính phe Ca-tô nói sai lại chê là thờ thần tượng, vì phe này thờ tượng chúa hài-đồng, Ma-ri-a, thánh nọ thánh kia. Trung thành với lệnh Giê-hô-va (Deuteronomy 18:20) "Phải giết đi kẻ tiên tri nào dám nhân danh ta nói điều gì ta không bảo nói", hai phe gây chiến với nhau hàng trăm năm giết hại biết bao sinh linh.

Trung-tâm dòng Tên ở Viễn-đông là Ma-cao thuộc Bồ-đào-nha. Tuy Bồ là một dân tộc rất bé sống ở một rẻo đất nhỏ miền Tây bán đảo Iberia, nhưng nhờ giỏi về nghề hàng hải, đầu thế kỷ 15 họ đã bắt đầu chiếm được nhiều đất trên thế giới để lập thành một đế quốc. Cuộc chiếm quần đảo Madeira năm 1419, quần đảo Azores năm 1427 ở Đại-tây-dương, xa ngoài Phi-châu, là những miền đất không người ở. Họ di dân đến đấy lập nghiệp. Họ lập pháo đài cùng trạm thương mại ở vịnh Guinea, Tây Phi-châu năm 1481. Các nhà hàng hải Bồ vượt mũi Hảo-vọng sang Ấn-độ-dương năm 1488.

Âu-châu thời bấy giờ theo chế độ phong kiến, vua chúa xứ nọ thường thông gia với vua chúa xứ kia. Sau khi vua chết, quyền kế vị nằm trong tay người cùng huyết thống, bất kể trai hay gái. Thuộc địa của vua qua đời có thể bị cắt thành nhiều mảnh để chia cho các con, vậy nên xảy ra nhiều trường hợp, một người vốn sống ở xứ mình có thể trở thành vua một xứ xa xăm cách trở. Bởi thế nhiều ông vua không nói được tiếng và cũng không biết tập quán của dân mà mình cai trị. Đó là trường hợp khiến cho vua Tây-ban-nha thành vua nước Bồ hay vua nước Hòa-lan. Columbus tìm thấy Tây-bán-cầu năm 1492; đất đai chiếm được phải thuộc về vua Tây-ban-nha là kẻ bỏ vốn ra bảo trợ cuộc thám hiểm nhưng vì quyền thừa hưởng theo huyết thống, Bồ được Tây-ban-nha ký nhường một vùng đất bao la ở Tây-bán-cầu gọi là xứ Ba-tây theo thỏa ước Tordesillas năm 1494.

Afonso de Albuquerque chiếm Goa ở bờ biển miền Tây bán đảo Ấn-độ năm 1510, rồi năm sau chiếm Malacca trên bán đảo Mã-lai. Năm 1557, Bồ thuê của nhà Minh đất Ma-cao ở tỉnh Quảng-đông bên Trung-quốc, lập thành thuộc địa. Bồ hiện đang duy trì thành-phố nhỏ nghèo nàn ấy làm một nơi cho du khách đến cờ bạc giải-trí, ít nhất cũng được đến năm 1999 là khi phải trả lại cho Trung quốc.

Rhodes không sang được Nhật

Rhodes học tiếng Nhật trước khi sang Viễn-đông, vì đã tính mạo hiểm đến đấy làm ăn nhưng dân Nhật quyết liệt diệt đạo Ca-tô nên dòng Tên đành đưa ông vào nước Việt-Nam vậy.

Vào thế kỷ 17, tàu buôn Tây-phương cứ ghé đất Nhật là được các lãnh chúa tiếp đón ân cần. Họ ham thích những hàng hóa vừa thiết yếu, vừa hấp dẫn, nhất là những khí giới vượt xa kỹ thuật sản xuất trong xứ. Các giáo-sĩ đi ké thuyền buôn được hậu đãi lây, không bị các lãnh chúa mảy may ngờ vực, còn được tướng-quân tặng đất ở Kinh-đô (Kyoto) để xây giáo-đường. Tướng-quân bên Nhật thời ấy y hệt chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nắm quyền cai-trị toàn cõi, thiên-hoàng chỉ ngồi làm vì.

Nước Vatican cử một giáo sĩ dòng Tên (Jesuite) là Valignani sang Nhật để điều khiển cuộc xâm lăng nước này. Ông tới nơi năm 1579, khôn khéo phô trương bề ngoài hiền như bụt, không vụ lợi, cũng chẳng cướp bóc tranh giành. Ông được lòng những người quyền thế. Các vương hầu như Omura, Arima, Bungo ngả theo, hết lòng giúp đỡ nhóm ông mở chủng viện, trường học, nhà thương. Giáo-sĩ Tây-phương dạy thần học đạo Giê-su cho thanh niên Nhật. Mọi kẻ tân tòng, bất kể là vương-hầu hay thường dân đều bị giáo-sĩ dạy phải tuân lời giáo-hoàng mà chỉ vâng lời người này thôi, rồi họ quên luật pháp quốc gia, lòng yêu nước cũng phai mờ theo Tưởng rằng cơ hội đã tới, giáo sĩ bèn tự lột mặt nạ hiền lành, xúi tín đồ phá phách chùa chiền nếu không biến thành giáo đường để thờ Giê-hô-va.

Tướng-quân Hideyoshi tuần du đảo Cửu-châu năm 1587, ngỡ ngàng thấy tận mắt cảnh chùa tan hoang, tượng Phật bị đập bể. Khi khám phá ra vụ các lãnh chúa theo đạo Ca-tô trong vùng lén cử sứ thần sang Rô-ma để tỏ lòng trung thành với giáo-hoàng, một kẻ xa lạ ở tận Roma, ông giật mình lo ngại rồi lập tức ra lệnh triệt hạ các giáo đường, tu viện đạo Ca-tô ở Kyoto, Osaka và trục xuất hết giáo-sĩ ngoại quốc, bắt họ phải rời khỏi đất Nhật trong vòng hai mươi ngày.

Chiếc tàu San Felipe của Tây-ban-nha gặp bão dạt vào tỉnh Tosa năm 1596 bị Tướng-quân Hideyoshi cho các quan đến tịch thu. Viên thuyền-trưởng phô trương sức mạnh của nước mình cho các quan, hi vọng rằng đến tai tướng-quân, ông này sẽ sợ rồi hủy bỏ lệnh đi. Hắn vừa mở bản đồ ra khoe những đất đai Tây-ban-nha cai-trị ở khắp bốn phương trời, vừa giảng rằng xứ Nhật không tài nào làm thế nổi, là vì Tây-ban-nha có giáo-sĩ mà Nhật thì không. Giáo sĩ đi trước thuyết giảng cho dân các nước theo đạo Ca-tô, rồi lính đế quốc Tây-ban-nha dùng tín đồ đạo ấy làm nội ứng đã dễ dàng chiếm nhiều xứ khác.

Tướng quân Hideyoshi quả nhiên sợ nhưng ông đã phản ứng khác với ý muốn của viên thuyền trưởng dại dột. Năm 1597, các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô, dòng Đa-minh bị chính phủ thiên-hoàng đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tại Na-gasaki, 26 giáo sĩ bị hành hình. Đã hiểu thâm ý của Vatican, các tướng-quân về sau tiếp tục diệt đạo Ca-tô, có khi gắt gao hơn cả Hideyoshi. Tướng-quân Yeyasu cấm dân đi theo giáo-sĩ trốn ra nước ngoài.

Năm 1637, dân đạo Ca-tô ở đảo Amakusa và vùng lân cận là Shimbara ép Phật-tử đổi sang đạo họ, lại võ trang chống chính phủ. Các giáo-sĩ Tây-phương dòng Tên cầm đầu 30.000 quân dương cờ lâm trận; có cờ mang tên Giê-su, tên Ma-ri-a. Họ giết vị quan cai-trị Shimbara, chiếm thành trì làm nơi cố thủ. Quân chính phủ không phá được thành vì không có đại bác đủ mạnh, phải điều đình mượn thương thuyền có võ trang của Hòa-lan. Người Hòa-lan theo đạo Tin Lành, cũng thờ Giê-su nhưng không biết ý chúa cứu-thế này ra sao mà họ không chịu đội trời chung với Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha. Đại bác Hòa-lan mạnh, thành bị phá, quân chính phủ Nhật tiêu diệt được quân đạo Ca-tô ở trong. Từ đó trở đi, đạo Ca-tô không ngóc đầu lên nổi ở Nhật. Một số người Nhật trốn ra khỏi nước đã làm nghề phụ-giáo-sĩ ở Hội-an để độ thân.

Đúng là kẻ cắp gặp bà già, Vatican là tay không vừa đụng phải dân Nhật-bản là những người quyết không dung các kẻ muốn cướp nước họ. Giáo-sĩ Ca-tô cứ tưởng áp dụng chiến-thuật dùng "vật hi-sinh" là có thể lung lạc nổi dân Nhật. Họ tin rằng nhờ cách ấy họ đã nuốt xong đế quốc La-mã to lớn thì thế nào mà chẳng nuốt trọng được nước Nhật nhỏ bé.

Ở đế-quốc La-mã, họ gây sự cho chính phủ bắt bớ, giết hại giáo sĩ. Quả nhiên các hoàng-đế đã làm như họ muốn. Các vị vua ấy tính rằng giết một người, vạn người sợ, nên mỗi khi hành hình một kẻ cuồng tín là rềnh rang quảng cáo với công chúng. Giám mục Cyprian ở tỉnh Phi-châu tức Algeria, Tunisia ngày nay, vừa nhiều tham vọng, vừa to miệng, lẩn trốn được tám năm rồi bị chính phủ bắt. Năm 258 ông đành chịu hưởng ân tử đạo. Khi ông bước ra pháp trường, các giáo sĩ làm việc dưới quyền ông được phép đi theo để tiễn đưa ông lên thiên đàng hưởng nhan Giê-hô-va. Họ bày một tấm vải ra để hứng máu ông khi đầu ông rơi xuống, đem về làm thánh tích (Gibbons, trang 219). Hoàng đế Diocletian (284-305) và những người kế vị đã đàn áp đạo Ca-tô trong mười năm. Sử-gia Gibbons kể rằng trong thời gian ấy, riêng tại vùng Palestine 92 người được danh dự chết cho Giê-hô-va rồi ông tính rằng cũng trong thời gian ấy, trên toàn đế quốc độ hai ngàn người (Gibbons, trang 233) được hưởng ân sủng đó. Nói chung trong mỗi thành thị ở đế quốc rộng bao la như vậy, thường là lâu lâu mới có một người bị lên án tử hình. Sự trừng trị đã chẳng làm kẻ mê muội tỉnh ra, lại còn thành dịp cho các giáo-sĩ khích động lòng cuồng tín. Thế là đế-quốc La-mã xụp đổ, Âu-châu bị xé thành nhiều xứ phong kiến do các lãnh chúa Ca-tô cầm đầu dưới quyền giáo-hoàng.

Nhật-bản không đối đáp với giáo-hội Ca-tô theo cách thức của đế-quốc La-mã. Họ đã tình cờ lấy gậy ông đập lưng ông, họ đã dùng chiến-thuật "làm cỏ" đạo khác của Vatican để chống lại đám người Ca-tô cuồng tín. Thế-kỷ 13, dân vùng Toulouse, miền Nam nước Pháp ngày nay, nhận thấy Giê-hô-va ác quá, đúng là quỉ Satan mạo nhận làm thiên-chúa. Họ lập giáo-phái Cathari chỉ kính thờ Giê-su thôi. Năm 1209, Giáo-hoàng Innocent III ra lệnh thánh chiến để diệt họ, quân phe giáo-hoàng bao vây thành Bézier rồi ngày 22 tháng bảy xông vào trong giết hết dân kể cả đàn bà, trẻ thơ. Người Nhật không biết dùng một gậy nữa của đạo Ca-tô. Vatican làm cỏ dân sống chưa đủ, họ không tha người đã chết. Năm 1329, tòa án đạo của họ ở Carcassonne cho đào mả bảy người họ kết tội tà đạo, móc xác lên đốt đi (Trần Quí, trang 133).

Rhodes viết sách

Rhodes để lại một số tác phẩm. Ông soạn một cuốn tự điển chữ quốc ngữ đối chiếu với tiếng Bồ-đào-nhà và tiếng La-tinh tựa là Dictionnarium Annamiticum Lusitanum et Latin- um. Vài giáo sĩ Bồ đã dùng mẫu tự La-mã phiên âm tiếng Việt từ trước, Rhodes bồi bổ thêm.

Năm 1645 Rhodes viết một bản Tường-trình Về Đàng Trong nói về những hoạt-động, những thủ đoạn tuyên-truyền đạo Giê-su của giáo sĩ ở Đàng Trong. Những đoạn như sau trong sách cho thấy dù chiến thuật dùng vật hi-sinh thất bại ở Nhật, họ vẫn kiên nhẫn áp dụng ở đất Việt:

"Thày giảng Inhaxu cần mẫn thực hành chức vụ trong miền Bắc đã trao phó cho thày. Thày bắt đầu làm nhiệm vụ trong phủ, nơi không thiếu việc để thỏa mãn lòng nhiệt thành. Có nhiều người xin theo đạo, những người này từ một năm nay đã giữ các ngày Chủ nhật và ngày lễ như thể đã là các Kitô hữu. Có một vụ bắt bớ đã xảy ra trong tỉnh này, làm mồi nhóm lòng nhiệt thành rất lạ lùng"

(trang 13-14).

"Thù địch ơn cứu rỗi của ta không thể chịu mất nhiều đồ đệ, thế là khi tôi rút lui thì nổi lên một vụ bắt bớ dữ dằn chống lại các người tân tòng, nhất là ở làng Kẻ Đại nơi có nhiều Kitô hữu hơn. Có một sắc lệnh được ban hành, bắt mọi người phải bỏ đạo, nếu không thì sẽ bị tịch thu hết của cải và bị án lưu đồ" (trang 14).

Bốn thủ đoạn chính đế quốc giáo quyền dùng để thôn tính các xã hội là gây lòng cuồng tín, cộng tác với đế quốc thế quyền, tàn sát những kẻ khác tín ngưỡng, đòi tự do tôn giáo. Vào cuối thế kỷ 20, nhiều lực lượng chính trị lớn mạnh trên thế giới không nề hà dùng tín ngưỡng làm khí giới để hạ địch thủ nên quyền tự do tôn giáo được yểm trợ mạnh mẽ. Những kẻ đòi quyền ấy nhiều nhất cũng là các giáo sĩ thờ thần dâm ác nào ta đã biết. Họ đòi quyền ấy để đi diệt các tôn giáo khác vì lệnh của thần đó là: Phải dứt khoát giết đi người thờ thần nào ngoài Giê-hô-va ra (Exodus 22:20). Lệnh này khiến họ cảm thấy là làm một sứ mệnh thiêng liêng khi nhúng bàn tay vào máu để diệt kẻ không cùng đạo. Vụ người đạo Giê-su tàn sát những người Hồi phái nam từ mười sáu tuổi trở lên ở Bosnia năm 1995 chứng minh rằng họ trở thành khát máu như không (Trần Quí, trang 136). Lời Rhodes khoe khoang ở trên còn biểu lộ một thủ đoạn nữa giáo sĩ thường dùng, họ gọi là "ơn cứu rỗi".

Khi giáo sĩ dùng mê tín để xâm lăng nước nào, họ bảo là họ mang "ơn cứu rỗi" đến cho nước ấy. Họ tuyên truyền là họ có một sứ mệnh rất cao cả nên nhất định liều thân đến làm ơn tuy không được mời, tuy bị đuổi đi.

Những người Việt sống trong thời Pháp-thuộc được đồng thời hưởng hai ơn của Tây-phương, "ơn cứu rỗi" của đế quốc giáo quyền, "ơn khai hóa" của đế quốc thế quyền. Chính phủ thuộc địa quảng cáo rằng người Pháp đại lượng hi sinh, đành bỏ cuộc sống sung sướng ở bên nước họ, lặn lội đi khai hóa dân lạc hậu. Quân Pháp thua trận, rút đi, chịu thôi hiến "ơn khai hóa" cho dân Việt. Giáo-sĩ Pháp hết được khí giới của thực dân bảo vệ cũng cút theo, chịu ngừng sứ mệnh đi dâng "ơn cứu rỗi".

Người Pháp xét lại lịch sử đã phải công nhận rằng mục đích của đế quốc, của thực dân chỉ là bóc lột dân bị trị, đạo đức bề ngoài chẳng qua là thủ đoạn mà thôi.

"Ơn khai hóa", bạn lòng của "ơn cứu rỗi", đã chết, nữ ma-vương "ơn cứu rỗi" đang cần tìm một hay nhiều tình nhân mới đủ sức mạnh che chở nàng, biết xoay xở nuôi sống nàng, để gậm nhấm, nếu không nuốt trọng nổi, những cá nhân, những xã hội, những quốc gia vô tình không biết bản chất nàng.

Rhodes viết: "Phải ghi nhận ở đây lòng quảng đại của một thanh niên là Âutinh, anh mới là Kitô hữu được ba bốn tháng, về thân xác thì đau yếu gần như bệnh tật. Anh bị bắt và tức khắc bị gò cánh khỉ rất đau đớn, để ở ngã ba đường phố không sao cựa mình được, thế nhưng anh vẫn không ngưng tươi nét mặt, mọi người đều khen lòng can đảm bất khuất của anh, anh đã toàn thắng tất cả những sự dã man người ta bắt anh chịu. Lương dân lại càng thêm đe dọa các Kitô hữu, nạt nộ họ, người thì đem chôn sống, kẻ thì dọa bắt đóng đinh trên cây Thánh giá mà các Kitô hữu đã thành tâm cho dựng trong xóm, nhưng tất cả các đe dọa không làm cho họ bỏ điều họ cho là của cải lớn nhất của họ" (trang 14).

Một người ông gọi là André tự nộp mình cho chánh phủ Đàng Trong,"lớn tiếng nói mình sẵn sàng chịu mọi hình khổ vì đạo".

"Thiên chúa muốn thưởng cho thày danh dự tử đạo". Quan tòa nói: "nếu y xưng là y nghèo khó và y đến phục dịch ông cha (giáo sĩ) để có của nuôi thân, thì tôi đã tha cho y, nhưng y bất khuất và táo bạo xưng mình là Kitô hữu và sẵn sàng chết vì đạo, y không sợ cực hình; như thế y tỏ ra ngoan cố và điên dại, y chết là phải. Đó là lời lẽ quan tòa ngoại đạo gọi sự khôn ngoan của Đức Thánh Linh là điên cuồng" (trang 32).

André bị hành hình. Rhodes kể rằng bọn giáo-sĩ Tây-phương ở Ma-cao hết sức mừng rỡ khi đón xác một người Việt thiệt mạng vì trúng mẹo ẩy bụi rậm của họ: "Ngay khi Gaspar d’Amaral, viện trưởng học viện Macao, cũng là phó giám tỉnh Nhật bản được tin về phẩm vật cao quí tôi gửi từ xứ Đàng Trong tới thì cha vô cùng hớn hở, chính cha cũng đã lâu năm được phái tới giảng Phúc âm trong nước này. Thế là quyết định đưa tin vui về thi hài thánh cho cả học viện và thành phố biết" (trang 37). Rhodes nói nữa về nỗi hân hoan của bọn giáo sĩ ấy, đoạn trên chỉ là một phần thôi.

free counters