Friday, June 27, 2008

Bằng chứng người Việt Nam bị tẩy não

Những người bình thường trong chúng ta dựa vào cái gì để hình thành quan điểm của mình? Ở Mỹ có dưới 3% đọc sách, vậy thì con số này ở Việt Nam là bao nhiêu? Như vậy quan điểm của một người bình thường hình thành không phải là từ sách vở dữ kiện, mà là từ cái gì nếu không phải là từ định kiến có sẵn?

Và bình thường định kiến của con người hình thành như thế nào? Ở Việt Nam có câu "Thấy sang bắt quàng làm họ", "Vai mang túi bạc kè kè, Nói quấy nói quá người nghe rầm rầm", "Thấy tiền sáng mắt", "Người giàu tróc da bằng người nghèo đổ ruột"... Cha! Sao nhiều dữ vậy trời? Có lẽ bệnh định kiến yêu nhà giàu này của con người Việt Nam hơi nặng nên mới có nhiều câu răn đe như vậy của ông cha để lại.

Như vậy là có một phần rất đáng kể trong chúng ta phân định đúng sai không phải vì đã tự mình tìm hiểu sự việc tận tường, tự mình độc lập xem xét lý lẽ đôi bên một cách khách quan mà đơn thuần chỉ là nghe ngóng người sang, giàu, đẹp nói rồi vào hùa theo cho chắc ăn.

Người tây phương đã lợi dụng triệt để tâm lý này trong quảng cáo thương mại và tuyên truyền chính trị và họ đã rất thành công. Họ đã tiến hóa trong nghề quảng cáo, điều khiển suy nghĩ con người tới mức độ xuất quỉ nhập thần. Bằng chứng?

Trường hợp nặng là những người Việt tới giờ này còn giương khầu hiệu chống cộng trong khi chính chủ của họ đã bắt tay chơi với cộng sản từ năm 1972 khi Nixon sang tận Trung Quốc thăm Mao.

Trường hợp nhẹ hơn là những người Việt Nam rỗi hơi can gián Bin Laden không nên tấn công nước Mỹ, dạy đời ông này phải biết "khoan dung". Em bé 15 tuổi này đúng ra còn quá trẻ để hiểu được chuyện đời nó thâm hiểm thế nào nên không đáng nói mà cái đáng nói là cái hội đồng chấm thi của Cuộc thi viết thư quốc tế UPU gì đó đã cho em này giải nhất!

Đáng lẽ cái hội đồng gồm những nhà giáo dục này phải nên dạy cho em bé này biết một chuyện đơn giản rằng chuyện chém giết cả ngàn-vạn mạng người của người ta, một là im lặng không can thiệp, còn nếu muốn can thiệp thì phải can cả hai bên, can kiểu này có ngày mang vạ!

Cái hội đồng chấm thi này có biết rằng vụ 9/11 chính xác là do ai làm chưa? Họ lấy thông tin về vụ này từ đâu ra? Cho tới bây giờ chỉ có chính phủ Mỹ nói rằng Bin Laden là chủ mưu, tất cả những người buộc tội tham gia đã chết mất xác. Cuộc điều tra ở tại tòa tháp đôi và Lầu Năm góc không được rõ ràng, và có rất nhiều nghi vấn không được thỏa mãn trong quần chúng Mỹ. Người Mỹ còn không biết rõ thì các bác nhà mình ở tận Việt Nam làm sao biết gì? Chính quyền Mỹ nổi tiếng trong dân Mỹ là nói láo như cuội, chuyện rành rành ngay trước mắt họ còn nói láo được huống hồ gì những chuyện không bằng cớ.

"Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" mà họ dùng để làm lý do bỏ bom Việt Nam cuối cùng đã tìm ra là nói láo. Nguyên nhân mà họ dùng để xâm lược Iraq cũng là nói láo. Người Mỹ đều biết Kennedy nói láo, Johnson nói láo, Nixon nói láo, ..., Clinton nói láo, Bush nói láo, có người đếm được là tới 935 lần Bush nói láo, chỉ một mình Bush con thôi! Người Mỹ thường nói đùa rằng: "khi nào bạn biết một chính trị gia nói láo?" Trả lời: "Khi ông (bà) ta mấp máy môi nói chuyện!" Xem video clip ở đầu trang để thấy rằng người Mỹ đã mệt mỏi và tức giận với những lời nói láo của chính quyền họ như thế nào.

Nhưng một điều chúng ta có thể chắc chắn là có một bộ phận người Arab có mâu thuẫn rất lớn với chính quyền Mỹ, nhưng nếu muốn xía vào chuyện của người ta thì phải tìm hiểu ngọn nguồn đầu đuôi, nếu không dễ trở thành hồ đồ. Hai bên đang đánh nhau thì mình không thể ở đâu nhảy vào không biết mô tê ôm một bên lại bảo người ta "khoan dung" được! Giải viết thư đó là một giải quốc gia, một em bé hồ đồ được giải nhất có thể bị người ta hiểu rằng cả quốc gia Việt Nam là hồ đồ.

Giết mấy ngàn người Mỹ vô tội nếu thực sự họ làm là không đúng, NHƯNG thực tế là trước đó cuộc cấm vận do Anh-Mỹ đầu têu đã giết chết nửa triệu con nít Iraq mà ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Madeline Albright đã lạnh lùng cho rằng đó là "đáng giá", đồng minh của Mỹ là Israel đã dùng vũ khí, tiền bạc do Mỹ viện trợ giết chết lai rai không biết bao nhiêu con nít Palestine, cuộc chiến ở Iraq hiện nay đã làm chết mấy từ mấy chục đến mấy trăm ngàn dân Iraq, hàng triệu người bỏ Iraq chạy sang tị nạn sống vất vưởng ở những nước láng giềng.

Nếu em bé "chuyên văn" này và hội đồng chấm thi dạy đời Bin Laden không nên giết mấy ngàn người Mỹ vô tội mà lại bỏ qua án mạng của cả triệu người Arab cũng vô tội không kém bị các chính phủ Mỹ giết thì có thể bị người Arab "hiểu lầm" là người Việt Nam thích nâng bi chính phủ Mỹ lắm đó.

Cái này thực ra không phải "hiểu lầm" mà chính xác là có một bộ phận rất lớn người Việt thích nâng bi cho tây, họ rất dễ dàng thông cảm với nỗi đau của tây hơn là nỗi đau của những dân tộc khác cũng bị tây đè đầu giống như họ! Bởi vậy tục ngữ ca dao ông bà để lại luôn chắc như đinh, không chạy đi đâu được! Thấy sang bắt quàng làm họ nên rất dễ bị nhà giàu tẩy não.

Thursday, June 26, 2008

Nhà cao ốc thay đổi hình dạng ra đời 2010

Kiến trúc sư người Ý David Fisher chào hàng ở New York. Mẫu hàng là tòa nhà 80 tầng, mỗi tầng đều xoay được; xoay bằng sức gió và dùng để tự phát điện luôn! Sẽ hoàn thành năm 2010 ở Dubai, $3000/squarefoot. Người ở penthouse có thể dùng thang máy đem xe hơi lên đậu ngay trong nhà!

Monday, June 23, 2008

Nghệ thuật ăn cướp

Các bước tiến hành:

1/ Buộc tội, hạch sách tìm cách cấm vận cho nó hoàn toàn kiệt quệ hết sức đối kháng quân đội giàu nhất thế giới cộng với chư hầu! Kiên nhẫn chờ đợi thời cơ.

2/ Khi thời cơ đến sẽ nói láo, ngụy tạo ra một nguyên nhân cụ thể là nước Mỹ và cả thế giới nữa, bị Saddam đe dọa bằng WMD. Ai nghi ngờ đây là âm mưu ăn cướp dầu thì trợn mắt chối phăng.

3/ Tiến hành tấn công chiếm Iraq (trả mối thù Saddam dám quốc hữu hóa dầu hỏa của Iraq đá đít bốn công ty dầu hỏa của phương tây ra 36 năm trước).

Khi không tìm thấy WMD như đã nói trước? Không sao, tiếp tục nói láo đổi lý do thành "giải phóng và đem lại dân chủ cho dân Iraq" cũng được mà?

4/ Các công ty dầu nhảy vào làm phước "giúp" Iraq tu sửa những giếng dầu đã hư hại xuống cấp "free", và sau đó vì lòng tốt "vô vụ lợi" đó nên các công ty này phải được ưu tiên hút dầu. Trước là hợp đồng ngắn hạn hai năm để người ta không "nghi ngờ" mình có lòng tơ tưởng đến của cải tài nguyên người khác. Sau khi dư luận nguôi ngoai quen dần thì sẽ chính thức kết hôn vĩnh viễn với toàn bộ những giếng dầu.

5/ Để cuộc hôn nhân này được ổn thỏa bền lâu thì phải cần sự hiện diện quân sự bền lâu cho nên phải đòi Iraq ký hiệp ước cho Mỹ xây dựng 58 căn cứ quân sự lâu dài trên lãnh thổ Iraq. Tình yêu của những công ty dầu tây phương với những giếng dầu Iraq sẽ không bị bàn tay của những phần tử quốc gia Iraq chia rẽ, nhưng lý do bề mặt phải là để "bảo vệ" Iraq khỏi sự dòm ngó của Iran!

Vài chi tiết thú vị:

1953, Mỹ-Anh dùng CIA lật đổ Thủ Tướng Mossadeq của Iran vì ông này dám quốc hữu hóa dầu hỏa của Iran khỏi bàn tay của các công ty dầu tây phương.

2003, tức là đúng 50 năm sau, cái trò cướp của giết người của đế quốc này vẫn còn xài được trong thế kỷ 21! Saddam và hàng trăm ngàn dân Iraq bị quân đội Mỹ-Anh và chư hầu luộc chín vì ông này cũng không chịu gả những giếng dầu của Iraq cho các công ty dầu Anh-Mỹ.

Bốn công ty dầu phương tây được hưởng lợi kỳ này chính là bốn công ty nằm trong Iraq Petroleum Co. 36 năm trước. Cái tên là như vậy nhưng những ông chủ đều đóng đô ở phương tây cả!

Theo một số người Mỹ, chỉ một phần chi phí của cuộc chiến này cũng đủ tài trợ cho những chương trình nghiên cứu năng lượng sạch để thay thế đáng kể dầu hỏa, đủ để nước Mỹ thoát khỏi cơn khát dầu. Nhưng nước Mỹ không vận hành như vậy. Các công ty dầu hỏa, súng đạn, bảo hiểm, tài chính là những thế lực vận hành nước Mỹ và mục tiêu của họ là thế giới chứ không phải chỉ có nước Mỹ. Những người chủ thực sự của nước Mỹ này đâu có suy nghĩ đơn giản như vậy? Tại sao nước Mỹ có khả năng giựt mà không chịu giựt lại phải co cụm an phận ở nhà? Hơn nữa, không có gì sinh lợi mau và quay vốn nhanh bằng đốt phá lợi dụng hỗn loạn để cướp giựt kiểu cổ điển như thời trung cổ cả, chỉ khác là hình thức thay đổi cho hợp với thế kỷ 21 thôi, nội dung vẫn là như vậy.

Dưới đây là danh sách 11 nước có trữ lượng dầu hỏa lớn nhất thế giới theo thứ tự.

1. Saudi Arabia 2. Canada 3. Iran 4. Iraq 5. Kuwait 6. United Arab Emirates 7. Venezuela 8. Russia 9. Libya 10. Nigeria 11. United States

Nước đứng thứ nhất, thứ năm và thứ sáu là Saudi Arabia, Kuwait và United Arab Emirates đã nằm trong "Hội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh" (Gulf Cooperation Council (GCC)). Hội Đồng này gồm có sáu nước, ba nước còn lại là Bahrain, Oman, và Qatar. Theo ước tính vào năm 1981, sáu nước này có trữ lượng dầu hỏa hơn một nửa thế giới rồi! Và quan trọng nhất là họ đã là "đồng minh" thân cận của Mỹ, cũng như Canada, ở vị trí thứ hai! Có nghĩa là những vị trí đó đã giải quyết xong. Được khai thác, chia chác hơn một nửa trữ lượng dầu của thế giới vẫn chưa đủ, nên phải cần giải quyết hai vị trí béo bở thứ ba và thứ tư, tức Iran và Iraq!

Hai thằng nhóc con, có nhiều dầu mà cứng đầu khác ở vị trí thứ bảy và thứ chín là Venezuela và Lybia cũng phải coi chừng. Bây giờ chỉ ném bùn nói xấu chúng bay cho thiên hạ nghe quen tai, tầy não thiên hạ trước. Chờ ông rảnh tay với hai thằng kia và thời cơ thuận tiện đến thì sẽ đến lượt hai chúng bay.

Thằng thứ tám thì khỏi nói, đụng tới nó thì ông cũng chết! Đành nhịn nó đứng tứ xa chửi khan cho bõ ghét vậy!

Thằng thứ mười thì nước nó hơi lớn, dân nó hơi đông, tới gần 150 triệu lận, xưa nay ông chỉ biết bắt nạt con nít nên đối với nó thì giao hảo, nói chuyện nhẹ nhàng và từ từ dụ nó là thượng sách! Cướp thì cũng phải lựa mặt mà cướp mới được.

Saturday, June 21, 2008

'Nghi ngờ' Mỹ giải phóng Iraq là vì dầu hỏa

Tờ NY Times ngày 19/6 đưa tin bốn công ty dầu hỏa của phương tây sắp hoàn tất đàm phán hợp đồng khai thác dầu hỏa với Iraq, 36 năm sau khi họ bị đá ra khỏi Iraq vì công cuộc quốc hữu hóa dầu hỏa của nước này khi Saddam lên nắm quyền. Những hợp đồng này được giao thẳng cho các công ty trên không qua đấu thầu. Một chuyện không bình thường trong ngành dầu hỏa.
Và đây là một đoạn rất tức cười trong bài báo này:
"Có những nghi ngờ trong dân của thế giới Arab và vài thành phần trong công chúng Mỹ cho rằng Mỹ tiến hành chiến tranh với Iraq chính xác là để bảo đảm lợi nhuận mà những hợp đồng này sẽ mang lại. TT Bush thì nói rằng cuộc chiến tranh này là cần thiết để chống khủng bố. Không rõ Mỹ đóng vai trò gì trong việc ban phát những hợp đồng này, trong khi người Mỹ đang làm cố vấn cho Bộ Dầu Hỏa của Iraq.
Sợ việc các công ty này đang hưởng lợi từ cuộc chiến tranh và giá dầu tăng cao có thể gây hiểu lầm, nhân viên cao cấp của hai công ty, yêu cầu được dấu thân phận của mình, nói rằng họ chỉ đang giúp Iraq xây dựng lại ngành dầu hỏa bị hư hại của Iraq."
Như vậy là sau tất cả những chuyện như trên và những chuyện khác nữa đã xảy ra từ đầu cuộc chiến đến giờ, những nghi ngờ của dân khối Arab và một phần quần chúng Mỹ cũng chỉ là những nghi ngờ. Chính quyền Bush và các công ty dầu hỏa Anh Mỹ hoàn toàn không có ý đụng vào dầu của Iraq mà chỉ muốn chống khủng bố và xây dựng lại ngành dầu hỏa của Iraq!
-----------------------------------------------------------------
Deals With Iraq Are Set to Bring Oil Giants Back
By ANDREW E. KRAMER
Published: June 19, 2008
BAGHDAD — Four Western oil companies are in the final stages of negotiations this month on contracts that will return them to Iraq, 36 years after losing their oil concession to nationalization as Saddam Hussein rose to power.

Moises Saman for The New York Times
Oil fields in the Iraqi province of Basra. Iraq produces about 2.5 million barrels of oil per day.
Exxon Mobil, Shell, Total and BP — the original partners in the Iraq Petroleum Company — along with Chevron and a number of smaller oil companies, are in talks with Iraq’s Oil Ministry for no-bid contracts to service Iraq’s largest fields, according to ministry officials, oil company officials and an American diplomat.
The deals, expected to be announced on June 30, will lay the foundation for the first commercial work for the major companies in Iraq since the American invasion, and open a new and potentially lucrative country for their operations.
The no-bid contracts are unusual for the industry, and the offers prevailed over others by more than 40 companies, including companies in Russia, China and India. The contracts, which would run for one to two years and are relatively small by industry standards, would nonetheless give the companies an advantage in bidding on future contracts in a country that many experts consider to be the best hope for a large-scale increase in oil production.
There was suspicion among many in the Arab world and among parts of the American public that the United States had gone to war in Iraq precisely to secure the oil wealth these contracts seek to extract. The Bush administration has said that the war was necessary to combat terrorism. It is not clear what role the United States played in awarding the contracts; there are still American advisers to Iraq’s Oil Ministry.
Sensitive to the appearance that they were profiting from the war and already under pressure because of record high oil prices, senior officials of two of the companies, speaking only on the condition that they not be identified, said they were helping Iraq rebuild its decrepit oil industry.
For an industry being frozen out of new ventures in the world’s dominant oil-producing countries, from Russia to Venezuela, Iraq offers a rare and prized opportunity.
While enriched by $140 per barrel oil, the oil majors are also struggling to replace their reserves as ever more of the world’s oil patch becomes off limits. Governments in countries like Bolivia and Venezuela are nationalizing their oil industries or seeking a larger share of the record profits for their national budgets. Russia and Kazakhstan have forced the major companies to renegotiate contracts.
The Iraqi government’s stated goal in inviting back the major companies is to increase oil production by half a million barrels per day by attracting modern technology and expertise to oil fields now desperately short of both. The revenue would be used for reconstruction, although the Iraqi government has had trouble spending the oil revenues it now has, in part because of bureaucratic inefficiency.
For the American government, increasing output in Iraq, as elsewhere, serves the foreign policy goal of increasing oil production globally to alleviate the exceptionally tight supply that is a cause of soaring prices.
The Iraqi Oil Ministry, through a spokesman, said the no-bid contracts were a stop-gap measure to bring modern skills into the fields while the oil law was pending in Parliament.
It said the companies had been chosen because they had been advising the ministry without charge for two years before being awarded the contracts, and because these companies had the needed technology.
A Shell spokeswoman hinted at the kind of work the companies might be engaged in. “We can confirm that we have submitted a conceptual proposal to the Iraqi authorities to minimize current and future gas flaring in the south through gas gathering and utilization,” said the spokeswoman, Marnie Funk. “The contents of the proposal are confidential.”
While small, the deals hold great promise for the companies.
“The bigger prize everybody is waiting for is development of the giant new fields,” Leila Benali, an authority on Middle East oil at Cambridge Energy Research Associates, said in a telephone interview from the firm’s Paris office. The current contracts, she said, are a “foothold” in Iraq for companies striving for these longer-term deals.
Any Western oil official who comes to Iraq would require heavy security, exposing the companies to all the same logistical nightmares that have hampered previous attempts, often undertaken at huge cost, to rebuild Iraq’s oil infrastructure.
And work in the deserts and swamps that contain much of Iraq’s oil reserves would be virtually impossible unless carried out solely by Iraqi subcontractors, who would likely be threatened by insurgents for cooperating with Western companies.
Yet at today’s oil prices, there is no shortage of companies coveting a contract in Iraq. It is not only one of the few countries where oil reserves are up for grabs, but also one of the few that is viewed within the industry as having considerable potential to rapidly increase production.
David Fyfe, a Middle East analyst at the International Energy Agency, a Paris-based group that monitors oil production for the developed countries, said he believed that Iraq’s output could increase to about 3 million barrels a day from its current 2.5 million, though it would probably take longer than the six months the Oil Ministry estimated.
Mr. Fyfe’s organization estimated that repair work on existing fields could bring Iraq’s output up to roughly four million barrels per day within several years. After new fields are tapped, Iraq is expected to reach a plateau of about six million barrels per day, Mr. Fyfe said, which could suppress current world oil prices.
The contracts, the two oil company officials said, are a continuation of work the companies had been conducting here to assist the Oil Ministry under two-year-old memorandums of understanding. The companies provided free advice and training to the Iraqis. This relationship with the ministry, said company officials and an American diplomat, was a reason the contracts were not opened to competitive bidding.
A total of 46 companies, including the leading oil companies of China, India and Russia, had memorandums of understanding with the Oil Ministry, yet were not awarded contracts.
The no-bid deals are structured as service contracts. The companies will be paid for their work, rather than offered a license to the oil deposits. As such, they do not require the passage of an oil law setting out terms for competitive bidding. The legislation has been stalled by disputes among Shiite, Sunni and Kurdish parties over revenue sharing and other conditions.
The first oil contracts for the majors in Iraq are exceptional for the oil industry.
They include a provision that could allow the companies to reap large profits at today’s prices: the ministry and companies are negotiating payment in oil rather than cash.
“These are not actually service contracts,” Ms. Benali said. “They were designed to circumvent the legislative stalemate” and bring Western companies with experience managing large projects into Iraq before the passage of the oil law.
A clause in the draft contracts would allow the companies to match bids from competing companies to retain the work once it is opened to bidding, according to the Iraq country manager for a major oil company who did not consent to be cited publicly discussing the terms.
Assem Jihad, the Oil Ministry spokesman, said the ministry chose companies it was comfortable working with under the charitable memorandum of understanding agreements, and for their technical prowess. “Because of that, they got the priority,” he said.
In all cases but one, the same company that had provided free advice to the ministry for work on a specific field was offered the technical support contract for that field, one of the companies’ officials said.
The exception is the West Qurna field in southern Iraq, outside Basra. There, the Russian company Lukoil, which claims a Hussein-era contract for the field, had been providing free training to Iraqi engineers, but a consortium of Chevron and Total, a French company, was offered the contract. A spokesman for Lukoil declined to comment.
Charles Ries, the chief economic official in the American Embassy in Baghdad, described the no-bid contracts as a bridging mechanism to bring modern technology into the fields before the oil law was passed, and as an extension of the earlier work without charge.
To be sure, these are not the first foreign oil contracts in Iraq, and all have proved contentious.
The Kurdistan regional government, which in many respects functions as an independent entity in northern Iraq, has concluded a number of deals. Hunt Oil Company of Dallas, for example, signed a production-sharing agreement with the regional government last fall, though its legality is questioned by the central Iraqi government. The technical support agreements, however, are the first commercial work by the major oil companies in Iraq.
The impact, experts say, could be remarkable increases in Iraqi oil output.
While the current contracts are unrelated to the companies’ previous work in Iraq, in a twist of corporate history for some of the world’s largest companies, all four oil majors that had lost their concessions in Iraq are now back.
But a spokesman for Exxon said the company’s approach to Iraq was no different from its work elsewhere.
“Consistent with our longstanding, global business strategy, ExxonMobil would pursue business opportunities as they arise in Iraq, just as we would in other countries in which we are permitted to operate,” the spokesman, Len D’Eramo, said in an e-mailed statement.
But the company is clearly aware of the history. In an interview with Newsweek last fall, the former chief executive of Exxon, Lee Raymond, praised Iraq’s potential as an oil-producing country and added that Exxon was in a position to know. “There is an enormous amount of oil in Iraq,” Mr. Raymond said. “We were part of the consortium, the four companies that were there when Saddam Hussein threw us out, and we basically had the whole country.”

Cái giá của chiến tranh

Và những người Mỹ có lương tâm nghĩ gì về cái giá đó? Họ có lòng tốt nhưng họ không phải là những người chủ của nước Mỹ nên hoàn toàn bất lực.

Thursday, June 19, 2008

500.000 trẻ em Iraq chết vì cấm vận là đáng giá

Cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời Clinton là Madeline Albright trả lời phỏng vấn đài truyền hình CBS ngày 12 tháng 5 năm 1996. Khi được hỏi rằng số trẻ em Iraq bị chết vì cấm vận là 500.000, cái giá này có đáng không thì bà ta đã trả lời: "Tôi nghĩ đây là một sự lựa chọn khó khăn, nhưng chúng tôi nghĩ cái giá đó là đáng."

Cấm vận là một hình thức chiến tranh rất thâm độc, dã man và vô nhân đạo giống như bao vây một cái thành trong thời trung cổ nhưng với qui mô một quốc gia. Việt Nam đã từng được nếm cái mùi này. Những hoá chất dược phẩm thuốc men cần thiết cho trẻ em đã bị cấm nhập và do đó đã làm chết rất nhiều trẻ em mà đáng ra chúng không phải chết. Hồi thời cấm vận Việt Nam thậm chí sữa bột cũng không nhập được. Chết trong chiến tranh vì súng đạn thì giống như bị chết vì đâm chém. Chết trong chiến tranh kiểu cấm vận thì giống như bị chết bằng bóp cổ la lên không được. Bóp cổ cho người ta chết từ từ không la lên được mà mình lại la làng là bị đe dọa thật ra là hiểm độc hơn nhiều!

Những nước bị cấm vận bóp cổ không bị thụt lùi hay tiêu vong luôn thì đã hay rồi chứ nói gì tới chuyện phát triển? Cái trò bỉ ổi bao vây người ta cho kiệt quệ rồi rêu rao đổ tội hết lên đầu chính quyền bị bao vây này là một trong những thủ đoạn chính trị bẩn thỉu hèn hạ nhất có thể làm ra được. Bao vây cho người ta kiệt quệ đói nhăn răng rồi lại hô hào bên ngoài chìa bàn tay nhân đạo ra: "trốn theo tao thì sống, ở trong thành thì chết". Cái trò này tuy rất thô thiển nhưng vẫn có khối người ngu không nhìn ra! Nhất là khi chính nước họ đã từng nếm mùi qua!

Wednesday, June 18, 2008

Thiên Lôi - Bài Học Nam Hàn

Có hai loại người Việt Nam đối chọi nhau. Loại thứ nhất là thà chịu nghèo mà có độc lập tự do và đất nước không bị chia cắt, không bị quân ngoại xâm vào nhà ngồi lên đầu mình. Loại thứ hai là không cần biết đất nước bị chia cắt, chủ quyền bị chà đạp, hay bị quân ngoại xâm vào nhà ngồi lên đầu mình mà chỉ cần biết là được nó nuôi cơm cho mập mạp trắng trẻo là được rồi! Làm người mà thấy người lạ quăng đồ ăn ra là nhào vô táp không cần biết đến tình nghĩa ruột thịt đồng bào đất nước thì đâu có khác gì con heo? Tại sao tôi phải dùng đến hình ảnh con heo? Vì cho tới giờ này có nhiều người Việt đầu heo này vẫn còn luyến tiếc cái chuồng heo và cái lò sát sinh khổng lồ mà ông chủ Mỹ của họ đã dựng lên ở miền Nam ngày xưa, họ vẫn còn hận vì cái chuồng heo và cái lò sát sinh đó bị dẹp! Xin cùng chia xẻ một bài mới hay nữa của bác Thiên Lôi.

----------------------------------------------------------------------

Bài Học Nam Hàn
Thiên Lôi
đăng ngày 16/06/2008

Lâu nay mọi người đều cảm thấy Triều Tiên có chút gì gần gũi với Việt Nam, nhưng vẫn chưa định hình ra được. Nào phải do từ câu chuyện hai giòng “thuyền nhân” theo chân các hoàng tử nhà Lý của ta lưu vong tị nạn ở đất Hàn vào các thế kỷ 12 và 13; hoặc vì lính của Nam Hàn bị Mỹ ép buộc đã phải qua bắn giết nhân dân Việt Nam trong những năm 1960s... Hình như lich sử của hai tiểu quốc vốn có chung nền văn hóa và tín ngưỡng đông Á này còn có nhiều điểm tương đồng khác mà bụi thời gian của lịch sử che mờ.

Cả hai đều là những dân tộc hiếu hòa khiêm cung muốn được sống yên thân nhưng lại luôn bị những tai họa xâm lăng từ các nước lớn từ gần đến xa, từ thực dân tây phương cũ đến mới. Để giữ vững nền độc lập và các truyền thống dân tộc trước những xâm thực của văn hóa ngoại lai; cả hai dân tộc đều phải luôn vừa sống khéo léo trong ngọai giao vừa kiên cường đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bờ cõi.

South Korean demonstrators gather in downtown Seoul for a candle ...South Korean protesters stage candle light protest against U.S. ...People fearing infection of mad cow disease chant slogans at ...

01

Bỗng nhiên gần đây tin tức nóng bỏng về các cuộc xuống đường chống Mỹ ồ ạt của dân Hàn tụ tập đến khỏang 80 ngàn người ở thủ đô Seoul vào ngày 11 tháng 6, mà báo chí Hàn bảo là lớn nhất hơn 20 năm nay, qua vụ tân tổng thống Lee Myung-bak chịu áp lực của Mỹ cho nhập cảng thịt bò với các điều kiện nới lỏng, làm ta không khỏi thắc mắc “cái gì tiềm ẩn đã làm cho dân Hàn chỉ chờ dịp là nổi giận”?

Ai cũng thấy là đời sống dân Nam Hàn trong thập niên vừa qua bỗng vượt cao hơn các nước khác trong vùng nhờ vài ngành kỹ nghệ điện tử, đồ gia dụng, hàng hải, xe hơi vv... tiến bộ nhanh chóng, có thể cạnh tranh được với các nước tiên tiến khác trên thị trường thế giới. Nam Hàn đã đạt được vị trí thứ 13 mạnh về nền kinh tế trên thế giới nhờ hàng xuất khẩu. Rồi trong thập niên gần đây dân Nam Hàn đua nhau sang Việt Nam đầu tư làm ăn; đàn ông thì đi lấy vợ Việt; phim ảnh Hàn tràn ngập thị trường Việt Nam; rồi các tài tử, ca sĩ, minh tinh Hàn thỉnh thoảng sang giao lưu đã làm cho biết bao cô cậu Việt choai choai lẫn xồn xồn mê mệt, đòi bắt chước cho theo kịp lối sống Hàn.

Có chàng Việt kiều về thăm quê hương kể câu chuyện tiếu lâm ở bàn nhậu nghe vui đáo để:

“Anh có biết là phong trào lấy tên Hàn hiện nay ở Việt Nam đang lên cao hay không? Học đòi theo tên Tây tên Mỹ với John Trần, Jack Lê, hay Nancy Nguyễn, Natalie Phạm xưa quá rồi! Này nhé như cậu này, cô này bữa nay còn có tên Hàn độc đáo lắm đó!”

“Tên Hàn gì vậy?”

“Cậu này mới đổi tên là Choi Song Yong; cô này có tên An Song Yong; tên này tên là Bak Song Hip; bố kia là Roh Moo Hyun dựa vào tên của tổng thống Nam Hàn!”

“Ngộ quá há; nghĩa là sao?”

“Ồ cái ông Ziệt kiều này quê quá; zậy mà không hiểu hả? Này nhé: Choi Song Yong là ‘Chơi xong thì giông”, An Song Yong là Ăn xong cũng giông luôn; Bak Song Hip là Bắt được là hiếp liền; Roh Moo Hyun là Rờ Mò và Hun! Hàn là zậy í mà.”

“Thiệt hết ý!”

Câu chuyện bình dân cho thấy sự giao lưu văn hóa ngày nay giữa hai dân tộc đã thân mật đến độ nào. Vậy thì cớ sao với đời sống sung túc như thế dân Nam Hàn vẫn chưa hài lòng hưởng thụ? À thì ra; ngó zậy mà không phải zậy! Tây đã từng có câu “Không phải thứ gì lấp lánh đều là ... vàng cả đâu” Đừng bé cái nhầm!

Theo mấy bản tin trên internet thì trước đây Nam Hàn là nước nhập thịt bò của Mỹ đứng hàng thứ 3 trên thế giới, thương vụ lên đến 1 tỷ đô-la mỗi năm cho đến khi dịch bò điên phát hiện ở tiểu bang Washington vào năm 2003 làm việc nhập cảng bị khựng lại.

Mọi việc lại xảy ra dưới thời tổng thống Roh Moo Hyun, một người ương ngạnh không chịu cúi đầu vâng lời Mỹ. Ông đã từng hãnh diện tuyên bố là không bao giờ trở thành "a Korean leader, kowtowing to the Americans." Đã vậy ông lại còn bày tỏ nhiều cảm tình với đồng bào mình ở Bắc Hàn, và đã cho phép nhiều cuộc hội ngộ của những gia đình bị phân ly do cuộc chiến Triều Tiên vào những năm 1950s. Vì thế mà tổng thống Roh Moo Hyun bị giới truyền thông Mỹ lên án là thiên tả và sự giao hảo với chính quyền Bush không mấy mặn nồng.

Dĩ nhiên là chú SAM không thể chịu bó tay; và từ lâu ai cũng biết chính trường ở các nước nhược tiểu chỉ là trò đùa của Mỹ. Cái trò tự do, dân chủ, phổ thông đầu phiếu vv... chỉ là những mánh khóe lừa bịp quần chúng để những đồng đô-la làm việc khuynh đảo sắp xếp ở hậu trường trong việc phế lập chóp bu giữa đám tay sai tranh giành miếng đỉnh chung. Vả lại tiền của và sinh mạng của Mỹ đã đổ vào Nam Hàn quá lớn nên không thể để cho ‘tụi cao ly kim chi’ này giỡn mặt được. Bộ các chú quên là quân đội Mỹ đang đóng dọc ở phía nam vĩ tuyến 38 để làm gì? Không lẽ đi du hí? Tòan là những căn cứ chiến lược nằm quanh thế giới; và kinh tế Nam Hàn nhờ vào tiền của lính Mỹ này tiêu xài cũng đáng kể lắm chứ!

Còn nhớ miền Nam Việt Nam trong 20 năm sống dưới bàn tay của Mỹ ai lại không ngao ngán xem các màn trình diễn tự do dân chủ, bầu cử để thiểu số Ca-tô lên cai trị đại đa số dân không theo đạo; lãnh đạo thì cứ bị thay đổi như miếng giẻ rách, thậm chí còn cho đi chầu Chúa bất đắc kỳ tử ngang xương. Trị giá sinh mạng của các ‘ngài tổng thống’ này không bằng miếng “kẹo cao su” chứ đừng nói đến “kẹo đồng”. Nào ai quên được vai trò nham hiểm lạnh lùng của các quan thái thú đại sứ và khâm sứ tòa thánh bên sau những sự cố này? Dù biết được nhiều bài học lịch sử đắng cay nhưng hiện nay vẫn còn nhiều tên Mỹ-Mít lêu bêu ở hải ngọai ham được lọt mắt xanh của chú SAM để may nhờ “ơn trên phù hộ” được sớm bồng về làm ‘thằng người có đuôi” (tức vĩ nhân) rởm tay sai ngoan ngoãn.

Trở lại chuyện Hàn; đợi đến khi thời thế ‘phổ thông đầu phiếu’ vào tháng 12, 2007 thì chỉ qua vài màn phù phép chính trị diễn tuồng, chú SAM đưa Lee Myung-bak lên ngôi. Hệ thống truyền thông Mỹ được lệnh đánh bóng ông Lee này (chẳng biết có dính líu gì đến Lý thừa Vãn năm xưa hay hậu duệ của các hòang tử nhà Lý lưu lạc của ta?) lên tít tận trời xanh vì thân Mỹ. Ngày 19 tháng 4, Bush mời Lee đến khu nghỉ mát của tổng thống Mỹ tại Camp David, mà báo chí liền khều một câu nhẹ đó là ‘niềm vinh dự lớn’ vì ít chính khách thế giới được ưu đãi như thế và hạng như cựu tổng thống Hàn Roh Moo Hyun thì còn lâu. Ai bảo truyền thông của Mỹ rất là vô tư độc lập?

Chẳng hiểu trong cuộc ăn chơi ở Camp David ‘phê’ tới đâu, họăc bị dao kê vào cổ như thế nào mà Lee gật đầu lia lịa cho phép nhập cảng thịt bò Mỹ, vô điều kiện, có xương họặc không xương và mọi loại tuổi vào Nam Hàn chỉ qua kiểm nghiệm sơ sài là đủ.

Điều này đã gây ra cuộc biểu tình rầm rộ nói trên, khởi đầu chỉ do một số nữ học sinh ‘thắp nến cầu nguyện’ ở trung tâm Seoul từ ngày 2 tháng 5 và lớn dần cho đến sáng 11 tháng 6 thì biến thành biển người. Khi đòan tuần hành tiến đến dinh tổng thống thì gặp phải một bức tường cản ngang bằng các containers to lớn có bôi dầu để thanh niên không thể trèo lên được. Gặp chướng ngại, dân biểu tình đã viết những câu lên giấy dán lên bức tường sắt: “Đây là biên giới mới của nước ta. Kể từ đây trở đi là tiểu bang Nam Hàn của Mỹ”.

Qua một bản tin của phóng viên Choe Sang-Hun thì người dân biểu tình phản đối chỉ vì lòng tự hào dân tộc bị tổn thương, chứ trọng điểm chẳng phải chuyện thịt bò bị bệnh hay không; vì giá thịt Mỹ lại rẻ chỉ bằng một nửa của thịt bò nội địa. Họ muốn thử xem các nhà lãnh đạo Hàn có can đảm kháng cự lại áp lực của siêu cường như Mỹ hay không. Đất nước họ đã từng bị các nước lớn lân bang liên tục xâm lăng cho nên trong thâm tâm họ luôn mang một ác cảm và nghi ngờ mưu đồ của các cường quốc khác cho dù đó là ‘đồng minh’ Hoa Kỳ. Họ đã hát lên những bài ca hãnh diện về truyền thống của các vương triều cổ xưa hùng mạnh. Bà nội trợ Kim Sook Yi, 35 tuổi bảo “Điều mà Lee làm có khác nào vua Hàn ngày xưa phải đi triều cống hoàng đế Trung Quốc. Nay thì ta lại đi triều cống Washington. Thực là nhục nhã, một gương xấu cho con trẻ Hàn.” Một phụ nữ khác hét lên "Lee Myung Bak là tên gian tặc Lee Wan Yong!" Ở Hàn ai cũng biết Lee Wan Yong vốn là đại thần phản quốc của vương triều Hàn ở đầu thế kỷ 20 đã giúp quân xâm lăng Nhật sáp nhập Cao Ly làm thuộc địa.

Dân Hàn thường lưu truyền qua các thế hệ bài hát “Đừng để bị Nga lừa. Đừng tin bọn Mỹ. Coi chừng tụi Nhật quay lại.” Họ không quên được nổi đau của đất nước bị phân chia bởi Mỹ và Liên Xô thành hai miền bắc Cộng sản và Nam thân Mỹ, sau khi đánh đuổi được quân Nhật xâm lược hồi thế chiến thứ hai. Sáu năm trước, khi một chiếc xe quân sự Mỹ cán chết hai cô gái Hàn đã làm bùng cháy tinh thần chống Mỹ của dân Hàn vì sự hiện diện của họ trên đất nước Hàn là một sự sĩ nhục quốc gia.

Choi Jin, giám đốc của the Institute of Presidential Leadership tại Seoul nhận xét tổng thống Lee thì quá hăng say với chính sách thực dụng trong việc giao hảo với Mỹ, đã xem nhẹ lòng tự hào dân tộc của nhân dân Hàn. Những khó khăn của tổng thống tiền nhiệm Roh là mang quá nhiều tinh thần dân tộc; còn Lee thì lại không hề có chút nào.”

Đang lúc lòng sôi sục chống Mỹ dân Hàn lên cao thì Alexander Vershbow, đại sứ Mỹ tại Nam Hàn đã thối mồm tuyên bố một câu rất phản cảm: “Chúng tôi mong rằng dân Hàn nên bắt đầu tìm hiểu thêm về khoa học và các sự kiện về thịt bò của Mỹ.” Thế là hôm sau một làn sóng chống đối nổi lên dữ dội, báo chí và chính giới gọi lời tuyên bố của quan thái thú Mỹ là một “lời sĩ nhục dân Hàn” buộc Vershbow phải xin lổi và bảo là lời nói của ông bị hiểu lầm.

Jeon Sang Il, một nhà xã hội học tại Sogang University tuyên bố: “Ngày nay chỉ có hai tên bồi Mỹ ở Nam Hàn. Một là Lee Myung Bak và người kia là Vershbow. Họ đã khơi dậy lòng chống Mỹ của dân Hàn với những gì họ đã làm và đã nói.”

Phụ tá Bộ trưởng Nông nghiệp của Mỹ Chuck Conner đã gặp các viên chức đối nhiệm của Hàn tại USDA sau đó để nghe tường trình về phản ứng của dân Hàn, nhưng lại khẳng định không chịu tái thương thuyết về những thỏa thuận trước đó về vụ thịt bò. Chính quyền Mỹ cương quyết như thế vì biết rằng vụ thịt bò có ràng buộc với một thỏa ước riêng về mậu dịch tự do song phương giữa hai nước chưa được Quốc hội Mỹ thông qua. Dĩ nhiên các ông dân biểu Mỹ được dịp nhảy vào đe dọa Nam Hàn là thỏa ước ấy có thể bị cản trở nếu vụ thịt bò không giải quyết êm xuôi. Điều này cho ta thấy mọi việc trên đời không đơn giản như ta nghĩ.

Qua câu chuyện, ta thấy rằng hình như đời sống của nhân dân Nam Hàn hiện nay tựa như con chim ở trong cái lồng sơn son thiếp vàng dán đầy chữ “tự do, dân chủ, nhân quyền” của ông chủ Mỹ; có đủ thóc ăn nước uống nhưng không thể tự ý mình tung bay ra ngòai bầu trời bao la được và làm những điều mình muốn; và phải chịu những căng thẳng áp lực liên tục nên chỉ chờ dịp là... xì hơi. Nhân đó ta nên tìm hiểu đôi chút về cái xã hội đầy phức tạp này để nhân dân ta học được bài học “phồn vinh giả tạo” do Thiên chúa trao cho và có quyền lấy lại khi Chúa muốn. Thiên chúa ở đây chính là bọn bạch quỉ tây phương, mà bầy giáo sĩ thường hay lừa bịp rao giảng.

Thiên chúa này vốn nhảy ra từ các đầu óc mê tín của dân Do thái du mục sơ khai cách đây khoảng 3 ngàn năm. Đến thế kỷ thứ 4, hòang đế La-mã Constantine I liền dùng hình ảnh ấy để làm biểu tượng cho sức mạnh thống trị vô địch của mình – Thiên Chúa chính là Ta – và lập ra một bộ phận tuyên vận tâm lý chiến, mà sau này trở thành hàng giáo sĩ Vatican, biên tập hai bộ kinh để biến nó thành một tôn giáo. Từ đó việc bành trướng các đế quốc tây phương đồng nghĩa với mở mang nước Chúa, nguồn gốc là đế quốc La-mã.

Nhiều người nghiên cứu lịch sử đạo Ca tô La Mã lấy làm thắc mắc tại sao Giáo Hội Vatican không hề phong thánh cho một nhân vật đã có công to lớn là đã dựng lên đạo này. Thực ra thì Constantine khôn bỏ mẹ, làm con Thiên Chúa (Thiên tử) ông ta còn chê, bởi chưa bao giờ ông ta nhận mình là con của Thiên Chúa cả; mà lại lệnh cho ban biên tập ghi vai ấy giành cho Jesus, tên tử tội đã bị lính La-mã đóng đinh trên thập giá ở đồi sọ Jerusalem về tội phản loạn hơn 3 thế kỷ trước đó. Ngay cả Constantine còn chẳng biết rõ mặt mũi và lý lịch của Jesus nữa. Nhưng ‘who cares? ’Vì sao? Vì Constantine đã nghe đến điếc tai là anh nào chiếm được ngai vàng cũng đều xưng mình là “Thiên tử” cả. Riêng ở Trung quốc, nếu đếm Thiên tử thì có đến mấy vạn. Không lẽ Thiên Chúa chơi bời loạn quá, để lại con rơi con rớt khắp nơi? Anh nào, màu da nào mới thực sự là con của Thiên Chúa đây? Nhưng chỉ có một Thiên Chúa mà thôi; và chính đó là Ta, là Constantine đang là Hòang đế La Mã đầy uy vũ. Còn tên nào muốn tự xưng mình là “con của Thiên Chúa” thì cứ mặc. Vatican không thể phong đại thánh cho Constantine được, bởi làm thế thì ông còn đứng dưới Jesus ư? Còn lâu. Thế là trái với ý của Constantine rồi còn gì! Bố tên nào dám?

Nếu ta không nắm được dụng ý chính trị thâm độc này của Constantine khi cho lập “đạo Ca-tô La Mã” là hiểu sai hết bản chất của đạo này và bị cái hệ thống thần học nhảm nhí của nó mê hoặc. Chỉ có Vatican và bọn lãnh đạo các đế quốc tây phương là được “tâm truyền” mà thôi, nên bọn họ luôn mỉm cười, hô hào mở mang nước Chúa theo đúng sự truyền thừa của Tổ sư Constantine.

Sau đấy, kể từ hình thành từ thế kỷ thứ 4, thì Chúa còn quanh quẩn ở châu Âu núp trong thành Vatican, Chúa háo sát háo chiến đánh đấm lung tung hết dìm châu Âu vào một thời kỳ dài tối ám, mở mấy cuộc “thập tự chiến” qua Trung đông, rồi kéo tàu chiến sang các châu khác chiếm đất làm thuộc địa đến thế kỷ 20. Trên con đường Chúa đi, mang theo “lưỡi gươm và thập ác”; ân sủng, phúc âm hay cứu rỗi... đâu chẳng thấy mà chỉ toàn thấy máu đổ thành sông, xương cao thành núi, và bao thành lũy, đền đài, văn hóa khác đều bị hủy diệt tan tành. Đặc biệt là Chúa chẳng nể nang gì đồng bào Do thái của Giáo chủ Jesus mà truy tận diệt tuyệt. Vẫn chưa hả hê, Chúa còn tiếp tay với Đức Quốc Xã nướng luôn khoảng 2 triệu dân này trong các trại tập trung. Mối thù này dân Do thái không quên, chỉ chờ ngày trả hận cho hả hê; và ngày ấy đã đến.

Vì Chúa ở Vatican càng già nua càng độc tài và độc ác, nên trong đồng đạo đã xảy ra nhiều cuộc nổi dậy. Vào thế kỷ thứ 7 có Mohammed lập ra Muslim đổi tên Thiên Chúa thành Allah; vào thế kỷ thứ 11 Chính thống giáo dọn ra riêng phía đông; vào thế kỷ 16 nước Anh ly khai lập ra giáo hội Anh giáo riêng, và ở Đức, giáo dân nổi dậy lập đạo Phản thệ Tin Lành. Đến thế kỷ 17 tín đồ đạo này bồng bế ông Thiên Chúa xuống thuyền trốn chạy qua vùng đất mới châu Mỹ, và dân Do thái cũng theo đó bám theo. Cũng chính dân Do thái, như Karl Marx, về sau đã lập ra chủ nghĩa vô thần đã đánh sập thần quyền của Chúa Vatican.

Sau đại chiến thứ hai, Thiên Chúa ở Washington đã đại thắng và thống trị được phần lớn thế giới để làm làm cha thiên hạ thay thế cho Chúa Vatican; rồi lại vẫn tiếp tục đi mở mang nước Chúa nhưng nay dưới bộ áo mới gọi là Tin Lành, chẳng biết đến bao giờ mới thôi. Dĩ nhiên bên sau hậu trường chính trị, kinh tế, chính sách của Mỹ đều lấp ló bóng dáng của những tên đầu xỏ tài phiệt Do thái giựt dây. (Chuyện bí hiễm này sẽ được đề cập trong một dịp khác).

Ta đã thấy ngày nay quyền lực của đám thiểu số Do thái này chỉ dựa vào đồng đô-la đã chi phối đời sống, chính trường, văn hóa và tôn giáo của thế giới như thế nào. Chỉ riêng kỹ nghệ tuyên truyền báo chí, truyền thanh truyền hình, âm nhạc, phim ảnh vv… đều nắm gọn trong tay của bộ máy điều hành khủng khiếp của họ. Từ đó họ đã nhào nặn, vo tròn bóp méo tin tức, tẩy não quần chúng thế giới để tin theo những chính sách có lợi cho Tây phương và đặc biệt là Mỹ và Do thái. Ngay cả mấy anh nối ngôi Giáo Hòang ở Vatican mà ngày xưa đã hành hạ tổ tiên họ còn phải cúi đầu theo lệnh đến thăm các lò thiêu Auschwitz, đặt vòng hoa tưởng nhớ nạn nhân, và mấy anh Tin Lành còn nhận tiền để lập các giáo hội hỗn hớp mới Judeo-Christian nữa. Ôi luật nhân quả luôn vận hành, lưới trời tuy thưa mà không thoát được.

Nhiều nước nhỏ sau bao nhiêu thập kỷ sống dưới sự chi viện của đồng đô-la và áp lực của kỷ nghệ võ khí siêu hạng của Mỹ, nhất là đám lãnh đạo tay sai ở các “tiểu quốc bưng bô” đã không hết lời ca tụng những “thành tựu phó sản” của tân mẫu quốc. Và thứ gì của Chúa Washington ngôn ra đều được các bộ máy tuyên truyền con nhai lại kỹ lưỡng mà không cần phải gạn lọc, tựa như “phản xạ Pavlov về tư tưởng”. Lắm khi lại còn lấy làm hãnh diện được giao cho nhiệm vụ “nhai lại” ấy, cứ như con chiên được phục vụ Chúa Vatican và Chúa Washington sau khi nhai lại mấy cuốn “kinh đạo ... dụ”.

Họ không hề nhìn thấy cái đạo đức giả và lừa mị trong những chiêu bài “tự do, dân chủ, nhân quyền” là đế quốc luôn có “double standard” khi thực hành những điều hứa hẹn ấy; chỉ tôn trọng với công dân của mình vì bị ràng buộc bởi hệ thống tổ chức quyền lực mà thôi; còn đối với các nước mà mình muốn phá họai thì chỉ chơi toàn luật rừng xanh. Hãy thống kê xem bom đạn của bọn tây phương hay của Mỹ đã giết bao nhiêu người thuộc các dân tộc trên thế giới trong chỉ vài thế kỷ chỉ vì các chiêu bài ấy?

Chính trong bối cảnh này mà ở thế kỷ 16, Việt Nam bị Chúa Vatican đến hảm hiếp đến tả tơi; mà bọn tay sai ca tụng là đến để “khai hóa bằng văn minh Ki-tô”, rồi lại trao sang cho Chúa Washington làm tiếp. May nhờ tài lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong công cuộc chiến đấu giải phóng đất nước nên đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 con cháu đã đạp cho các Chúa ra biển khơi, chạy không kịp mặc quần, mà thống nhất được giang sơn gấm vóc của cha ông.

Còn dân Hàn thì thật đáng tội; họ đã gặp phải Chúa Washington bám trụ dai hơn; lại học được bài học tại Việt Nam nên khôn ngoan hơn Chúa Vatican trước đây, vì nay không những Chúa cầm “lưỡi gươm và thập ác” mà lại còn ôm “bao đô-la” xâm nhập vào xã hội, dưới tên “đầu tư kinh tế” nữa, nên xem bề còn lâu dân Hàn mới giải phóng và thống nhất đất nước được như Việt Nam. Chỉ mới từ sau cuộc chiến Triều tiên vào năm 1953 mà dân Nam Hàn ào ào đổi đạo để chạy theo đồng đô-la của Chúa Washington mệt nghỉ thì đã lậm lắm rồi. Xem bề sách lược mở mang nước Chúa kiểu mới này có vẻ theo đúng bài bản “bàn tay sắt (lưỡi gươm và thập ác) bọc nhung (đô-la)” hiệu quả hơn nhiều. Việc mở mang nước Chúa ở Nam Hàn do Chúa Washington chỉ đạo trở thành khuôn thước cho các giáo sĩ truyền đạo khác noi theo để tiến vào các nước khác ở Á Châu.

Từ bao đời sách lược của Chúa tây phương là, muốn làm dân mới đổi đạo là cứ nhảy vào tàn phá đất nước của chúng cho tan nát để chúng thực kiệt quệ, đói rách, xóa sạch vết tích văn hóa bản địa; rồi từ từ đem thực phẩm và thập ác đến chiêu dụ sau. Dân Hàn có thể phân bua: “Mấy ai mà không mê tiền? Theo đạo có gạo mà ăn! Tại mấy ông sư Phật giáo vừa nghèo quá vừa cứ lim dim mũ ni che tai mãi nên tụi tui mới phải theo Chúa chứ bộ; đừng trách tụi tui tội nghiệp. Chuyện giải thóat hay lên thiên đàng hãy bàn sau. Ăn no mặc ấm trước cái đã.”

Châu Âu có câu chuyện cổ tích rất được ưa chuộng là “Cô bé quàng khăn đỏ” gốc từ trong tuyển tập của Charles Perrault ở thế kỷ 17; về sau đươc lan truyền khắp thế giới. Đó là chuyện dụ dỗ giữa con chó sói và cô bé chòang khăn đỏ. Ý nghĩa luân lý của nó, Perrault bảo (xin trích câu tiếng Anh): “I say Wolf, for all wolves are not of the same sort; there is one kind with an amenable disposition — neither noisy, nor hateful, nor angry, but tame, obliging and gentle, following the young maids in the streets, even into their homes. Alas! Who does not know that these gentle wolves are of all such creatures the most dangerous!” (Trời ơi, ai mà không biết những con chó sói hiền lành đó lại là giống nguy hiểm nhất !)

Đó cũng chính là hòan cảnh của các nước nhỏ thân Mỹ, như Nam Hàn chẳng hạn, một cô bé choàng khăn đỏ đã gặp phải con sói Chúa Washington thì chỉ còn có từ chết đến bị thương mà thôi.

Như vậy, cái vẻ hào nhóang phồn vinh của Nam Hàn nếu xét kỷ thì đúng thực là “giả tạo” vì bao nhiêu kỹ thuật, tiền bạc đầu tư đa số đều nằm trong tay của các chủ nhân ông Yankee, và các ông “mục sư Tin Lành” nham hiểm, cộng thêm khoảng 40 ngàn quân Mỹ đóng thường trực ở phía nam ví tuyến 38 từ năm 1953 có khác gì quân La-mã đóng ở Jerusalem. Sự phồn vinh kia đều do chú SAM hay Thiên Chúa Washington ban cho cả, và dĩ nhiên Chúa muốn cho sập tiệm lúc nào mà chả được. Thử hỏi dân Hàn có dám làm cho Chúa nổi giận hay không?

Như đã nói trên, Chúa Vatican đã quá già và đang ở trong Viện dưỡng lão châu Âu không còn làm nên cơm cháo gì; nhưng Chúa Washington vẫn không quên công lao xưa đã mở đường xâm lược và ảnh hưởng còn sót lại trên đám con chiên mù ở các nước nghèo trong đó có Việt Nam nên còn giao cho vài nhiệm vụ bảo vệ gác cửa để sống qua ngày. Thỉnh thỏang đại diện của Chúa Washington cũng ghé qua Vatican thăm viếng ủy lạo, chứng tỏ mình còn quan tâm như Bush mới làm một cử chỉ xã giao vào ngày 13 tháng 6 năm 2008 vừa qua.

Nhưng theo đúng qui luật tự nhiên thì cái gì đạt đến cực điểm rồi phải tàn, tương tự như đế quốc La-mã sau khi bành trướng quá mức đã trở thành một con quái vật tham tàn luôn đòi hỏi được thỏa mãn, nhưng đến một lúc tài nguyên cạn kiệt thì tự nó phải gục ngã. Có đế quốc nào hùng mạnh miên viễn đâu? Phổ, Pháp, Anh? Đời sống sung túc giàu mạnh của xã hội Tây phương, nhất là Mỹ đều dựa vào súng đạn vũ khí và các động cơ chạy bằng xăng dầu. Thử tưởng tượng nếu hết xăng dầu thì nền kinh tế của tây phương sẽ như thế nào? Vì thế mà các Chúa, nhất là Chúa Washington hiện nay, phải luôn bận rộn xách “lưỡi gươm” gây hấn khắp nơi để vơ vét, và nhất là các xứ Ả Rập nhiều mỏ dầu. Đó cũng là bài bản của những vở tuồng “terrorists” đang diễn trên thế giới. Dĩ nhiên, theo sau lính viễn chinh tây phương đều có các “giáo sĩ đạo đức... giả” ôm mấy cuốn “kinh đạo... dụ” để lôi kéo tân tòng. Giả thiết là Chúa Washington thống trị được vùng Trung đông và hút sạch các mỏ dầu đến một lúc chúng cạn kiệt thì điều gì sé xảy ra? Tự thân của nó sẽ sụp đổ khi cung không còn để thỏa mãn cho cầu. Hiện nay động đất xảy ra liên miên trên địa cầu vì các bọng dầu khí vốn nằm sâu làm ổn định địa tầng bị khai thác quá nhanh làm mất thế quân bình.

Qua bài học của Nam Hàn, chợt nhớ một đoạn báo phỏng vấn một ông tướng Việt Nam, Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại, đăng trên Báo Pháp luật TP.HCM ngày 1/5/2006; và những câu trả lời của ông thực thấm thía và mong rằng các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đều vẫn còn ôm ấp những điều tốt đẹp như vậy:

Có lần một viên Trung tướng Mỹ hỏi tướng Thoại:

- “Tôi vẫn luôn ray rứt với một câu hỏi là vì sao chúng tôi không thắng được các ngài.”

- "Đối với các ngài đó là sự ray rứt, nhưng đối với chúng tôi thì nó đơn giản lắm, như hai cộng với hai là bốn ấy".

- "Tôi không hiểu ngài thiếu tướng nói gì?"

- “Lý do đơn giản nhất là các ngài chọn và đánh giá sai đối phương. Các ngài đánh giá chúng tôi chỉ dựa trên quân số của quân đội chúng tôi, dựa trên trình độ phát triển của nền kinh tế, nhất là vũ khí trang thiết bị, nhưng sai lầm lớn nhất của các ngài là các ngài không đánh giá cả dân tộc chúng tôi. Dân tộc đó có nền văn hoá hàng ngàn năm. Cái cốt lõi của sức mạnh ấy là lực lượng vũ trang của chúng tôi được “nền văn hoá hàng ngàn năm” hun đúc nên: Bố hy sinh thì con đứng lên cầm súng, con hy sinh thì cháu tiếp tục lên… “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ - lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ấy là lời núi sông, non nước.”

À thì ra dù cho ngày nay Việt Nam ta không theo kịp kinh tế (do Chúa Washington ban cho) Nam Hàn, nhưng ta “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.” Ta vẫn còn hơn Nam Hàn nhiều thứ lắm. Làm cho đất nước chóng giàu mạnh chỉ cần một thời gian ngắn, chứ một khi nước mất thì biết bao lâu mới giành lại được. Vậy bài học Nam Hàn cho ta kết luận được điều gì? Sống phồn vinh trong bàn tay Chúa ban dù từ Vatican hay Washington vẫn chưa phải là hạnh phúc chân thật trừ phi điều đó do tự chính dân tộc mình làm ra trong một đất nước hòan tòan độc lập. Vậy còn có gì quí hơn độc lập tự do?

Nhiều người lo lắng cho con thuyền Việt Nam trước bao nhiêu sóng gió bảo bùng liên tục lao đến từ các Thiên Chúa Vatican và Thiên Chúa Washington, hay nhà cầm quyền nước ta sẽ mềm lòng trước những lời dụ dỗ đường mật của các Chúa; nhưng ta nên tin tưởng vào sự lèo lái sáng suốt của một tập thể lãnh đạo đất nước vốn đã được tôi luyện bằng xương máu của cả dân tộc có “nền văn hoá hàng ngàn năm”, chứ có phải một vài tên chóp bu lêu bêu phất phơ đầu đường xó chợ đã được ngọai bang đặt lên làm tay sai như trước đây đâu. Hãy vững tâm và làm hết sức mình cho một tương lai đầy xán lạng của tổ quốc Việt Nam bên trời đông!

Thiên Lôi

Tháng 6, 2008

Sunday, June 15, 2008

Thế giới 'phát triển' - Tâm lý con người bệnh hoạn hơn?

Con người trong thế giới công nghiệp bận rộn hơn nên trở thành lạnh lùng hơn. Thiếu thì giờ cho mọi thứ nên cái gì cũng "quick fix", ăn nhanh, ngủ nhanh, yêu nhanh...
Để đáp ứng nhu cầu làm gì cũng phải nhanh và sẵn sàng của con người hiện đại, trong tương lai, con cháu chúng ta sẽ yêu và làm tình với robot cho khỏi mất thì giờ cưa cẩm cho mệt, để dành thì giờ cày.
--------------------------------------------------------
In 2050, your lover may be a ... robot
by Alix Rijckaert
MAASTRICHT, Netherlands (AFP) - Romantic human-robot relationships are no longer the stuff of science fiction -- researchers expect them to become reality within four decades.
And they do not mean simply, mechanical sex.
"I am talking about loving relationships about 40 years from now," David Levy, author of the book "Love + sex with robots", told AFP at an international conference held last week at the University of Maastricht in the south-east of the country.
"... when there are robots that have also emotions, personality, consciousness. They can talk to you, they can make you laugh. They can ... say they love you just like a human would say 'I love you', and say it as though they mean it ..."
Robots as sex toys should already be on the market within five years, predicted Levy, "a sort of an upgrade of the sex dolls on sale now".
These would have electronic speech and sensors that make them utter "nice sounds" when a human caresses their "erogenous zones".
But to build robots as real partners would take a bit longer, with conversation skills being the main obstacle for developers.
Scientists were working on artificial personality, emotion and consciousness, said Levy, and some robots already appear lifelike.
"But for loving relationships -- that is something completely different. In loving relationships there are many more things that are important. And the most difficult of all is conversation.
"You want your robot to be able to talk to you about what is interesting to you. You want a partner who has some similar interest to you, who talks to you in a manner that pleases you, who has a similar sense of humour to you."
The field of human-computer conversation is crucial to building robots with whom humans could fall in love, but is lagging behind other areas of development, said the author.
"I am sure it will (happen.) In 40 years ... perhaps sooner. You will find robots, conversation partners, that will talk to you and you will get as much pleasure from it as talking to another human. I am sure of it."
Levy's bombshell thesis, whose publication has had a ripple-effect way beyond the scientific community, gives rise to a number of complicated ethical and relationship questions.
British scholar Dylan Evans pointed out the paradox inherent to any relationship with a robot.
"What is absolutely crucial to the sentiment of love, is the belief that the love is neither unconditional nor eternal.
"Robots cannot choose you, they cannot reject you. That could become very boring, and one can imagine the human becoming cruel against his defenseless partner", said Evans.
A robot could conceivably be programmed with a will of its own and the ability to reject his human partner, he said, "but that would be a very difficult robot to sell".
Some warn against being overhasty.
"Let us not exaggerate the possibilities!" said Dutch researcher Vincent Wiegel of the Technological University of the eastern town of Delft.
"Today, the artificial intelligence we are able to create is that of a child of one year of age."
But Levy is unyielding. He is convinced it will happen, and predicts many societal benefits.
"There are many millions of people in the world who have nobody. They might be shy or they might have some psychological hang-ups or psycho-sexual hang-ups, they might have personality problems, they might be ugly ...
"There will always be many millions of people who cannot make normal satisfactory relationships with humans, and for them the choice is not: 'would I prefer a relationship with a human or would I prefer a relationship with a robot?' -- the choice is no relationship at all or a relationship with a robot."
They might even become human-to-human relationship savers, he predicted.
"Certainly there will be some existing human-human relationships where one partner might say to the other partner: 'if you have sex with a robot I'm leaving you'.
"There will be others who say: 'when you go on your business trip please take your robot because I happen to worry about the red light district'."








Saturday, June 14, 2008

The Revolt of the Liberated

Iraq – 'liberated' nation or outpost of empire?

The recent exchange between the McCain and Obama campaigns over the GOP candidate's remarks to Matt Lauer have underscored the central issue of this presidential election year and framed the campaign in terms of a single, overriding issue: the future of the American empire. In an interview with McCain on the Today Show, Lauer lobbed a softball about how "the surge is working," and McCain readily agreed, whereupon Lauer came back with:

"'If it's working, senator, do you now have a better estimate of when American forces can come home from Iraq?'

"McCAIN: No, but that's not too important. What's important is the casualties in Iraq. Americans are in South Korea. Americans are in Japan. American troops are in Germany. That's all fine."

The Obama camp immediately came back with a volley of startlingly ineffective rhetorical cant, wheeling out none other than John Kerry, who was for the war before he was against it. Kerry scolded McCain for being "out of touch and inconsistent" – because, after all, it matters to the families of the troops when they come home. "It is important when they can come home. It is important when we can revitalize our military." Potshots from Harry Reid and DCCC chairman Chris Van Hollen were similarly off the mark, with the former echoing Kerry's "we don't have enough troops" and the latter saying we need to get out of Iraq so we can get busy in Afghanistan.

The McCainiacs – rightly – complained that their candidate's words were being taken out of context:

"John McCain was asked if he had a 'better estimate' for a timeline for withdrawal. As John McCain has always said, that is not as important as conditions on the ground and the recommendations of commanders in the field. Any reasonable person who reads the full transcript would see this and reject the Obama campaign's attempt to manipulate, twist and distort the truth."

This is absolutely correct – it isn't that McCain is indifferent to the exigencies of serving two or three tours in Iraq. What he really said, however, was much worse. He wants to turn Iraq into yet another province of the American empire: like Japan, or South Korea. Indeed, the Korean model has long been held up by the administration as an ideal solution, albeit cautiously. Asked if this concept meant an occupation of 50-plus years, then-White House spokesman Tony Snow averred:

"No, no, I'm not. I don't know. It is an unanswerable question, but I'm not making that suggestion."

McCain, it seems, has answered the unanswerable – and to his essential point the Democrats have no effective reply. After all, from their perspective, what would be wrong with a Korean-style occupation of Iraq? No casualties, no muss, no fuss – except for an occasional anti-American demonstration. The Democrats condone such a policy in Korea and Japan, reflexively voting to fund those occupations – and if we could reduce Iraq to the state of subservience experienced by these two satrapies, then what's the problem?

The great problem with the Iraqis is that, unlike the Japanese and the Koreans, they're fighting back. McCain's response is to crush them. The Democrats would rather cut and run. Within the imperial paradigm accepted by both parties – a conceptual framework that simply assumes our overweening global military presence – the GOP has the advantage of looking "tougher," while the Democrats look merely craven.

There is little resistance in Congress to the imperial delusions of our rulers, but in the parliament that convenes in the Green Zone, a storm is brewing. The object of contention is the "status of forces" agreement the Bush administration is trying to impose on the Iraqis. The administration has long been moving to formalize the frankly colonial relationship between the U.S. and Iraq, and now those efforts are moving swiftly to a conclusion, with U.S. officials predicting an agreement sometime in July – but I wouldn't count on it.

We initially demanded over 200 military facilities across Iraq, but later whittled it down to a mere 58. We also wanted the right to detain any Iraqis without turning them over to Iraqi authorities, a free hand to conduct military operations, and immunity from prosecution by U.S. soldiers and private contractors – in effect, a continuation of the occupation.

Word is out that the Americans are now in a compromising mood, agreeing that contractors should be subject to Iraqi law and accepting something less than a completely free hand militarily. Yet still there are ominous rumbles of protest, coming not just from the opposition but also from the ruling coalition of Shi'ite parties. Note the words of Jalal al-Din al-Saghir, a leader of the Supreme Islamic Council fraction of the Iraqi parliament,

"We rejected the whole thing from the beginning. In my point of view, it would just be a new occupation with an Iraqi signature. …Maybe the Iraqi government will say: 'Hey, the security situation is better. We don't need any more troops in Iraq. Or we could have a pledge of honor where the American troops leave but come back and protect Iraq if there is any aggression."

Haider al-Abadi, a leader of Prime Minister Maliki's own Da'wa party, declares:

"What the U.S. wants is to take the current status quo and try to regulate it in a new agreement. And what we want is greater respect for Iraqi sovereignty. Signing the agreement would mean that the Iraqi government had given up its sovereignty by its own consent. And that will never happen."

The Post reports a top aide to Prime Minister Nouri al-Maliki as saying:

"The Americans are making demands that would lead to the colonization of Iraq. If we can't reach a fair agreement, many people think we should say, 'Goodbye, U.S. troops. We don't need you here anymore.' "

And these are the pro-American parties!

The American people voted in November, 2006, to bring the troops home – and, instead, all they got was another two years of an increasingly bloody and expensive foreign occupation that threatens to morph into a larger, regional conflict. The Democrats, given the majority to end the war, elected instead to continue it, consistently voting for war funding whilst insisting on their eagerness to bring the troops home. It looks like, in the end, it will be Iraqi legislators, not Americans, who will finally accomplish what the Democrats promised.

All of this was predicted by war opponents before a single American boot tread on Iraqi ground: Pat Buchanan, I recall in particular, foresaw this day in all its tragic absurdity. What we are now witnessing is the revolt of the "liberated" people of Iraq – against their American liberators.

So what will we do when they ask us to leave?

This is the acid test of Empire, a dry run of the new American Brezhnev Doctrine, which holds that once a country becomes an American vassal, that vassalage is permanent. When Hungary tried to leave the Warsaw Pact, the 1956 revolt was crushed by Soviet troops. When Koreans rose up against their American occupiers and the South Korean dictatorship during the 1980 Kwangju Rebellion, they were cut down with the full complicity of our government. What will the Americans do when the Iraqi forces they trained and armed turn on them?

The frontiers of empire are being pushed outward, and Iraq – bristling with American bases and weaponry – is slated to become a launching pad for U.S. military adventurism in the region. This is happening without significant domestic opposition from either party: aside from some very loud grumbling, the top national security mavens in the U.S. Senate have stopped short of taking any actions, aside from writing worrisome letters to Condi Rice. As the Post points out, "Although they have questioned the status of forces agreement's contents, lawmakers have not raised the issue of its congressional ratification."

Of course not. When their guy gets in the White House, they'll claim the same imperial prerogatives for themselves. An empire is run by … an emperor, not a legislature.

Far from offering an alternative to the vision of America as a hegemon on which the sun never sets, the Democrats have developed their own version of militarism with a "humanitarian" face. Madeleine Albright bemoans the likelihood that the Iraq war will put the American people off to the sort of interventions she favors. Yes, this is the great humanitarian and Democratic secretary of state who declared that the sanctions on Iraq – which killed tens of thousands of old people, the sick, and the very young – were "worth it."

Absent a status of forces agreement between the U.S. and Iraq, the presence of our troops in Iraq will lack any formal legal basis, or even the pretense of one. The UN mandate is soon to run out, and the Iraqis are threatening to mount a fight over the extension of that, too – a spectacle that could be mighty embarrassing for the U.S.

If and when Obama takes the White House, the Iraq war will immediately become his war, and his party's war. The issue will then be: a negotiated end to the conflict and the occupation, or else a series of "surges" culminating in an open conflict with Iran. A third scenario – an ignominious helicopters-taking-off-from-rooftops retreat – is a real possibility, too. Staying the course is no longer an option.

~ Justin Raimondo

Friday, June 13, 2008

Trí thức không bằng củ khoai

Vì dòng máu nô lệ cho người da trắng trong người quá mạnh nên nhiều người Việt Nam hoàn toàn mất khả năng đối kháng với người da trắng là chủ của họ. Họ hoàn toàn mất hết lý trí để thấy được cái sai của chủ nô da trắng của họ, vì người chủ nô trong mắt của họ là quá vĩ đại! Khi có bất cứ tranh chấp gì giữa chủ nô da trắng và người nô lệ Việt Nam, bên đúng phải là chủ nô da trắng của họ.
Đối với những vụ tranh chấp này, họ suy xét không phải bằng lý trí và sách vở mà là bằng tình yêu thương, sự ngưỡng mộ đối với chủ nô da trắng của họ. Học hành làm gì mà dám phán xét một chuyện có liên quan đến độc lập thống nhất của cả một dân tộc, hàng mấy triệu sinh mạng của đồng bào bằng hai chữ "nếu như" vô trách nhiệm như thế?
Đầu óc của loại trí thức nô lệ dại tây này khi đụng tới những lỗi lầm của tây thì nó sẽ trở thành củ khoai ngay!
Em Phiếu không thấy rằng người da trắng Đức không sáng mắt khi dám tấn công TRƯỚC MỘT LƯỢT mấy cường quốc hùng mạnh nhất thế giới trong đó có Liên Xô là một liên bang có lãnh thổ trải rộng 1/6 quả địa cầu để cuối cùng phải chịu mang vạ bị những cường quốc thắng trận đó xâu xé? Ngược lại em ấy lại thấy đắc ý rằng người Đức sáng mắt khi không chống lại sự xâu xé đó? Đang thọ án cái tội xâm lược người ta mà chống cái gì em?
Em Phiếu cũng không thấy rằng Mỹ không sáng mắt khi ỷ mạnh dắt một đám côn đồ chư hầu khác đem quân vào Việt Nam như chỗ không người. Mỹ không sáng mắt khi không thấy rằng Việt Nam ngoài một thiểu số có máu nô lệ dại tây thích cho tây nắm đầu ra còn có đa số không thích cho bất cứ ngoại bang nào nắm đầu. Những người này sẵn sàng hy sinh đến người cuối cùng để giành độc lập và thống nhất vì họ đã quá chán chê với thân phận làm nô lệ tay sai bị người da trắng chà đạp trên chính quê hương họ cả trăm năm rồi.
Ngay cả những người da trắng cũng đã nhận ra sai lầm của họ đối với Việt Nam và họ đã viết rất nhiều sách để mong được sòng phẳng với lương tâm của họ, nhưng lại có một đám người Việt mang trong đầu tư tưởng nô lệ dại tây thương chủ hơn cả chủ vẫn khư khư rằng người Việt Nam chống ngoại xâm giành độc lập thống nhất là một sai lầm!
Ngày nào tư tưởng nô lệ dại tây này còn lưu truyền thì làm sao chính quyền có thể lỏng lẻo ra được?
Một trong những cuốn sách nói về sai lầm của Mỹ này là: "Our Ho: Fact and Fiction", của Alan Truscott, một người bảo thủ ủng hộ cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam, chứ không phải là một người tiến bộ chống chiến tranh. Trong đó có nói đến những sự thật như:
Bác Hồ đã hợp tác chặt chẽ với phe Đồng Minh trong Thế Chiến II vì tin vào những lời tuyên bố tôn trọng độc lập của các dân tộc thuộc địa của phe này.
Tác giả nhận thức rằng Mỹ đã phản bội Bác Hồ khi trả Việt Nam lại cho Pháp, tài trợ và cố vấn cho Pháp trong cuộc kháng chiến 9 năm của người Việt chống Pháp.
Có cố vấn và tài trợ trên 80% chiến phí mà Pháp cũng phải thua Việt Minh sau 9 năm, nếu không có tiền đó thì Pháp chống được mấy năm đây? Nợ máu với người Việt trong chuyện này có phần của Mỹ không?
Tác giả nhận thức rằng Mỹ đã tiếp tục phản bội Bác Hồ sau khi Pháp thua, tiếp tục cứng đầu dùng sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chính trị trên thế giới của mình trao một nửa nước cho ông Diệm, một người không có công lao gì với công cuộc chống Pháp giành độc lập cả.
Chính ông Diệm cũng bị Mỹ phản bội.
Còn cái này là của anh Mèo: Cả cái đám tay sai nô lệ dại tây cầm quyền ở miền Nam cuối cùng cũng bị Mỹ phản bội luôn. Cái này chính những người đó cũng đã công nhận là như vậy.
Theo cuốn sách trên, thời Thế Chiến II, Mỹ nhận định Bác Hồ là một người quốc gia và thân Mỹ. Hải Quân Mỹ và tình báo OSS của Mỹ rất thích ông. Hiến Pháp của Việt Nam sau Thế Chiến II gần giống với Mỹ. Ông bỏ tên Đảng Cộng Sản và kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử với sự tham gia của tất cả các đảng phái. Người Mỹ lúc đó được đón tiếp như những anh hùng, được mọi người yêu mến và chúc mừng.
Trong cuốn sách có ghi lại phỏng vấn của BBC với những cựu nhân viên OSS là nhân chứng của thời đó.
Bác Hồ và người Việt Nam đã cư xử đẹp đẽ như vậy đối với người Mỹ mà em còn muốn sao nữa? Hai chữ "nếu như" đó phải để cho những nhà cầm quyền Mỹ. Nếu như họ biết tôn trọng người Việt như người Việt tôn trọng họ thì Việt Nam và Mỹ đã có thể là bạn bè lâu rồi. Họ lại xem người Việt hết thảy là một đám nô lệ dại tây, lãnh thổ Việt Nam là đất vô chủ muốn sang nhượng chia chác sao cũng được nên mới xảy ra cớ sự.
Và dưới đây là một vài bức thư của Bác Hồ gửi cho các loại tây khác nhau nói chuyện lý lẽ lịch sự nhẹ nhàng với họ. Nếu đầu óc củ khoai của em Phiếu mà biết tri lý thì sẽ tự biết rằng tây đầu thế kỷ 20 không biết điều như tây đầu thế kỷ 21. Ngay cả đầu thế kỷ 21, họ vẫn còn chưa biết điều như thường, nói gì tới khoảng 50-100 năm trước? Họ không xem người da màu trên thế giới là người giống như họ mà là một loại súc vật, đồ vật biết nói, cho nên nói phải quấy nhẹ nhàng họ đâu thèm nghe?
Bức thư cuối trong những thư này là yêu cầu được đưa thanh niên Việt sang Mỹ trao đổi văn hóa và học hỏi kiến thức, tỏ rõ hy vọng được giao hảo hòa bình và hợp tác với Mỹ của Bác Hồ. Nhưng nhà cầm quyền Mỹ lúc đó lại không muốn làm bạn mà lại muốn làm cha Việt Nam họ mới chịu cơ! Và họ đã kiếm chuyện nói ngược và vu vạ lại Bác Hồ để thực hiện âm mưu đó. Cái chiêu này xưa như trái đất, thế mà có cả lũ người Việt được học hành tử tế khoe bằng này bằng nọ mà nó chả biết gì cả lại còn dám vào hùa với tây chửi ngược lại dân tộc!
Như vậy gọi là đầu óc ngu dốt nô lệ dại tây thế kỷ 21 có oan không?
Letter to Secretary of State Robert Lansing in Paris, June 18, 1919
We take the liberty of setting fourth the claims of the Annamite people on the occasion of the Allied victory. We count on your great kindness to honor our appeal by your support... Since the victory of the Allies, all subject peoples are frantic with hope at the prospect of an era of right and justice which should begin for them... in the struggle of civilization against barbarism.
-----------------------------------------------------------------------------------------
In France, December 26, 1920
You all have known that French imperialism entered Indochina half a century ago. In its selfish interests, it conquered our country with bayonets. Since then we have not only been oppressed and exploited shamelessly, but also tortured and poisoned pitilessly. Plainly speaking, we have been poisoned with opium, alcohol, etc. I cannot, in some minutes, reveal all the atrocities inflicted on Indochina. Prisons outnumber schools and are always overcrowded with detainees. Natives are arrested and sometimes murdered without trial. Vietnamese are discriminated against. We have neither freedom of press nor freedom of speech. Even freedom of assembly and freedom of association do not exist. We have no right to live in other countries or to go abroad as tourists. We are forced to live in utter ignorance and obscurity because we have no right to study. In Indochina the colonialists find all ways and means to force us to smoke opium and drink alcohol to poison and beset us. Thousands of Vietnamese have been led to a slow death or massacred to protect other people's interests. Such is the treatment inflicted upon more that 20 million Vietnamese, that is more than half the population of France. And they are said to be under French protection!
---------------------------------------------------------------------------------------------
Letter to President Harry Truman, February 16, 1945. The letter was never answered and was not declassified until 1972
DEAR MR. PRESIDENT:
Our VIETNAM people, as early as 1941, stood by the Allies' side and fought against the Japanese and their associates, the French colonialists.
From 1941 to 1945 we fought bitterly, sustained by the patriotism, of our fellow-countrymen and by the promises made by the Allies at YALTA, SAN FRANCISCO and POTSDAM.
When the Japanese were defeated in August 1945, the whole Vietnam territory was united under a Provisional Republican Government, which immediately set out to work. In five months, peace and order were restored, a democratic republic was established on legal bases, and adequate help was given to the Allies in the carrying out of their disarmament mission.
But the French Colonialists, who betrayed in wartime both the Allies and the Vietnamese, have come back, and are waging on us a murderous and pitiless war in order reestablish their domination. Their invasion has extended to South Vietnam and is menacing us in North Vietnam. It would take volumes to give even an abbreviated report of the crisis and assassinations they are committing everyday in this fighting area.
This aggression is contrary to all principles of international law and the pledge made by the Allies during World War II. It is a challenge to the noble attitude shown before, during, and after the war by the United States Government and People. It violently contrasts with the firm stand you have taken in your twelve point declaration, and with the idealistic loftiness and generosity expressed by your delegates to the United Nations Assembly, MM. BYRNES, STETTINIUS, AND J.F. DULLES.
The French aggression on a peace-loving people is a direct menace to world security. It implies the complicity, or at least the connivance of the Great Democracies. The United Nations ought to keep their words. They ought to interfere to stop this unjust war, and to show that they mean to carry out in peacetime the principles for which they fought in wartime.
Our Vietnamese people, after so many years of spoliation and devastation, is just beginning its building-up work. It needs security and freedom, first to achieve internal prosperity and welfare, and later to bring its small contribution to world-reconstruction.
These security and freedom can only be guaranteed by our independence from any colonial power, and our free cooperation with all other powers. It is with this firm conviction that we request of the United Sates as guardians and champions of World Justice to take a decisive step in support of our independence.
What we ask has been graciously granted to the Philippines. Like the Philippines our goal is full independence and full cooperation with the UNITED STATES. We will do our best to make this independence and cooperation profitable to the whole world.
I am Dear Mr. PRESIDENT,
Respectfully Yours,
(Signed) Ho Chi Minh
---------------------------------------------------------------------------------------------------
Letter to Secretary of State James Byrnes, November 1, 1945
[Could I Send] to the United States of America a delegation of about 50 Vietnam youths with a view to establish friendly cultural relations with American youth on the one hand, and carrying on further studies in Engineering, Agriculture, as well as other lines of specialization on the other. They have been all these years keenly interested in things American and earnestly desirous to get in touch with American people whose fine stand for the noble ideals of international Justice and Humanity, and whose modern technical achievements have so strongly appealed to them.