Sunday, August 17, 2008

Charlie Nguyễn - Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris

Đọc bài dưới đây chúng ta thấy được phần nào vai trò của A. de Rhode trong công cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp. Chúng ta có thể thấy được vai trò hỗ trợ lẫn nhau giữa hai thế lực Công giáo La Mã và thực dân Pháp. Không có đám giáo sĩ, giáo dân thì thực dân Pháp khó lòng xâm lược thành công Việt Nam. Các giáo sĩ trong đó có A. de Rhodes phải nói là thuộc hạng công thần của thực dân Pháp vì đã đi trước mở đường lập ra những tổ chức làm gián điệp, tay sai, chỉ điểm cho lực lượng quân viễn chinh sau đó. Thực dân thì chiếm được thuộc địa, giáo sĩ như de Rhodes thì mở mang được "nước Chúa".

Chính miệng họ rao giảng rằng cả vũ trụ này là do "Chúa" sáng tạo ra mà họ lại phải mất công đi "mở mang nước Chúa"! Như vậy có phải là dở hơi không? Như vậy cũng chưa có gì. Chuyện kinh dị hơn nữa là có khoảng 8 triệu người Việt nghe lọt lỗ tai những câu ấm ớ như vậy!

Qua bài này chúng ta thấy chuyện đòi đặt tên đường và dựng tượng cho những công thần của thực dân Pháp như de Rhodes là một hành động phỉ nhổ lên tên tuổi của những anh hùng chống Pháp. Nếu nói de Rhodes có công "cho" người Việt "quốc ngữ" thì thực dân Pháp cũng có công "khai hóa" Việt Nam vậy? Không có thực dân Pháp thì làm sao Việt Nam có xưởng đóng tàu, đồn điền cao su, đường xe lửa, dân Việt Nam làm sao biết nhảy đầm, nước Việt Nam làm sao có được những thành phố tây như Sài Gòn, Đà Lạt?

Họ có công lớn như vậy đối với Việt Nam thì chống họ làm gì, đuổi họ đi làm gì? Như vậy những người chống Pháp ngày xưa là ấm ớ?

Nếu đặt tên đường, dựng tượng de Rhodes thì cũng phải nên đặt tên đường, dựng tượng những quan toàn quyền thực dân cho đầy đủ ý nghĩa. Sau đó phải nên dẹp bỏ hết những tên đường tên trường, tượng đài của những người đã từng chống lại những ân nhân thực dân có công khai hóa Việt Nam đó. Những tên tuổi không đội trời chung với thực dân Pháp và đã bị Pháp và giáo sĩ, giáo gian giết hại như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,... và cả trăm cả ngàn, cả triệu người khác nữa nên được nhìn lại một cách đúng đắn là những tên giặc cỏ!

Các bác này thay vì rảnh không có chuyện gì làm ngồi nghĩ vớ vẩn tìm tên tây đặt cho đường phố thì nên nghĩ cách làm sao giải quyết cái mới dây nhợ chăng ngang chăng dọc lơ lửng như sắp rớt lên đầu người ta khắp thành phố có được không ạ? Theo thiển ý của em thì người đi đường lo mưa lớn dây điện bị đứt-xẹt, bị điện giựt chết, hay là du khách thấy đường xá xấu như vậy không dám trở lại hơn là họ lo đến chuyện con đường đó tên là gì ạ.

Đường phố văn minh không phải là nhờ có cái tên tây mà là là vì nó gọn gàng, sạch sẽ, an toàn cho người đi đường các bác ạ. Khi nào đường ra đường, phố ra phố thì nghĩ tên đặt cũng chưa muộn các bác ạ. Sau đó các bác cần đọc sách vở lịch sử tìm hiểu thật kỹ nhân vật mà các bác muốn đặt tên - dựng tượng ạ, chuyện đặt tên đường không phải là chuyện nghe ngóng tin đồn hay ngẫu hứng sáng tác muốn đặt thì đặt muốn dỡ xuống thì dỡ các bác ạ. Làm như vậy dân nó cười cho, mất uy tín hết.

Chuyện quan trọng hơn hết là không thể đặt tên đường - dựng tượng thờ một người có công sáng lập ra một tổ chức gián điệp đã hợp tác chặt chẽ với thực dân Pháp thôn tính đô hộ Việt Nam gần 100 năm các bác ạ! Tên đường quan trọng như vậy thì ít nhất các bác phải điều tra xem ông tây đó có làm gián điệp cho thực dân không chứ ạ? Có dạy người Việt chống lại người Việt không chứ ạ? Hình như cả hai chuyện này A. de Rhodes đều có làm đấy các bác ạ!

-------------------------------------

Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris
và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19

Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu tiên về sự có mặt của đạo Công giáo trên đất nước Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo Việt Nam đã có 470 năm lịch sử. Trong chiều dài thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn bốn thập niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là thời gian thăng trầm, phức tạp và ô nhục nhất trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000 giáo dân đã tích cực giúp cho thực dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.

Những gì đã xảy ra trước và trong quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã chủ động tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Sử gia Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99) như sau: “ Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lược đất nước này”.

Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, danh dự của tổ quốc Việt Nam đã bị sỉ nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị quân địch xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ trong ký ức của mọi người Việt yêu nước. Lịch sử mất nước của dân tộc Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ mở rộng nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa của thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào thời điểm đó đã hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nước theo giặc, trắng trợn phản bội Tổ Quốc.

Việc dựng lại một cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử mất nước ô nhục đó không phải là chuyện dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công giáo Việt Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng một sự may mắn đã đến với chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, người Ấn Độ, giáo sư sử học tại đại học Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm các tư liệu liên quan đến các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.

Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do chính văn khố của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là một món quà tinh thần quí giá cho những ai hằng thao thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam. Bộ sưu tập tài liệu về Hội Thừa Sai Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck được viết bằng Anh ngữ dưới tựa đề “French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914” do Liverpool University Press xuất bản tại Anh Quốc năm 1987. Bản dịch Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ biến năm 1989 dưới tựa đề: “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam 1857-1914”. (Mỗi khi trích dẫn tài liệu này, chúng tôi xin ghi tắt TSCG) . Ngoài tư liệu của Patrick Tuck, chúng tôi còn tham khảo thêm sách Sự Du Nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19” của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam (mỗi khi trích dẫn sách này, chúng tôi xin ghi vắn tắt SDN/TCG).

Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng chứng lịch sử về các hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris trong nỗ lực vận động Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến Việt Nam hầu thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa xâm chiếm thuộc địa.

I. Sự thành lập hội Thừa Sai Paris và tiến trình tội ác của hội này đối với dân tộc Viêt Nam.

Sáng kiến đầu tiên đưa đến việc thành lập hội Thừa Sai Paris là do Alexandre de Rhôde. Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về Âu châu vận động Vatican và Pháp thành lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ người Pháp để gửi sang Viễn Đông truyền đạo và mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại vùng này. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Á Châu còn mạnh. Đại sứ Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực lực phản đối việc thành lập Hội Thừa Sai Pháp và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến Á Châu mà không có phép của hoàng gia Bồ. Phải đợi đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt và không còn đủ sức tài trợ cho cuộc truyền giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh chính thức thu hồi “độc quyền truyền giáo” (Padroado).

Hội Thừa Sai Paris được chính thức thành lập năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ người Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là các tu sĩ chuyên việc trông coi giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó, mỗi khi thiết lập một giáo phận mới tại Á Châu, Vatican đều giao các giáo phận mới cho các giáo sĩ thừa sai Pháp cai quản. Mặc dầu hoạt động của các thừa sai đều thuộc về tôn giáo, nhưng chính quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ Ngoại Giao, bộ Thương Mại và nhất là bộ Hải Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm trợ cho các giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang 27). Ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, và đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương” p. 16-17 (SDN/TCG, trang 123).

Việc thành lập hội Thừa Sai Paris năm 1663 không phải là một hành vi tôn giáo thuần túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa thực dân Pháp thời đó, vì hội này do chính phủ Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ thực hiện tham vọng bành trướng thuộc địa ở Viễn Đông. Danh từ “giáo sĩ thừa sai” (missionaries) được định nghĩa là người được cử ra nước ngoài để thực hiện những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà Thánh La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội Thừa Sai. Tự Điển Bách Khoa Hoàn Vũ (Encyclopedia Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng thêm định nghĩa Hội Thừa Sai (Mission) như sau: “Hội Thừa Sai cũng tiến hành nhiệm vụ thực dân, cũng chinh phục và tiêu diệt, tham gia các cuộc chinh phạt để đoạt lấy quyền uy vinh quang và lợi tức. Điều quan trọng nhất của Hội Thừa Sai là đồng hóa văn hóa của các xứ bản địa” (SDN/TCG, trang 302).

Gần hai thế kỷ sau ngày thành lập, đến đầu thế kỷ 19 có 3 biến cố xảy ra làm cho Hội Thừa Sai Paris trở thành hội Truyền Giáo mạnh nhất của Giáo hội Công giáo:

- Biến cố 1: Vào năm 1822, các nhà tư bản Pháp thành lập tại Lyon một tổ chức lấy tên là “Hội Truyền Bá Đức Tin”.Đây là một trung tâm tài chánh lớn lao yểm trợ các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai tại Viễn Đông. Năm 1839, quĩ của hội lên tới hai triệu francs.

- Biến cố 2: Năm 1839, giáo hoàng Gregory XVI chính thức thừa nhận hội Thừa Sai Paris là cơ quan truyền giáo chủ lực tại Viễn Đông. Tuy nhiên, trọng tâm trách nhiệm của Hội là Việt Nam.

- Biến cố 3: Cuộc đảo chánh do các giáo sĩ Pháp chủ trương năm 1851 đã đưa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế (tức Napoleon III). Sự kiện này đưa đến sự liên kết mật thiết giữa hoàng gia Pháp và Vatican. Điển hình là vụ Vatican và Pháp dàn dựng màn kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” năm 1858 (xin đọc webpage Giao Điểm tháng 8, 2003).

A.- Các giáo sĩ thừa sai tích cực vận động Vatican và chính quyền Pháp xâm chiếm Việt Nam.

- Các giáo sĩ thừa sai Paris giao du thân mật với hoàng hậu Eugénie, họ đã lợi dụng hoàng hậu xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam từ năm 1852. Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh cho phái bộ ngoại giao Pháp tại Trung Quốc phải thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại Đông Dương (TSCGP, trang 53).

- Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21-5-1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại được Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Việt Nam do hai giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán thành (TSCGP, trang 554).

Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, được cử làm giám mục tại Saigon năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm Việt Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này, y xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng Genouilly không chịu vì y muốn chiếm Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được hội Thừa Sai đổi về Penang dạy học, y chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP, trang 554).

Linh mục Huc sinh tại Pháp năm 1814. Trong các năm 1844-1846, linh mục Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây Tạng và miền Tân Cương (Trung Quốc). Năm 1850, linh mục Huc xuất bản mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng đạo tại các xứ huyền bí Á Châu, đồng thời viết sách kêu gọi chính quyền Pháp xâm chiếm Triều Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã đọc và rất chú ý đến các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc với linh mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon III đã cho thành lập “Ủy Ban Brenier” để nghiên cứu đề nghị của linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục Pellerin đến thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động tờ báo L’Univers ủng hộ việc xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.

Tháng 5/1857, ủy ban Brenier lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế Napoleon III áp đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam để phục vụ lợi ích của nước Pháp. Ủy ban này đề nghị thực hiện một cuộc viễn chinh với một hạm đội gồm 6 tàu chiến và 2600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn chinh sẽ được sự yểm trợ của hải quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ trợ tích cực của 600,000 giáo dân công giáo bản địa.

Hoàng đế Napoleon III chấp thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày 21-9-1857. Mấy tháng sau, Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam (TSCGP, trang 57-61). Cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài từ cuối 1857 đến tháng 2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long và toàn miền Đông Nam Kỳ.

B. – Quân dội viễn chinh Pháp và các giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam có cùng mục tiêu chung.

- Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam là bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở tại Paris, do Chasseloup Laubat làm bộ trưởng. Chasseloup Laubat công khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một Philippines thứ hai tại Á Châu. Nói cách khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công giáo là một giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc địa một cách lâu dài.

Như vậy rõ ràng là quan điểm của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính quyền Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu chính trị (TSCGP, trang 123). Để thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp đã đưa ra hai quyết định sau đây:

1. Chính quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một hệ thống các giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.

2. Các giáo sĩ thừa sai Pháp được coi là những công chức phục vụ nhà nước nên họ được hưởng lương hàng năm. Năm 1864, nhà nước thuộc địa Pháp đã trả cho các giáo sĩ thừa sai 40,000 Francs; năm 1879 tăng lên 145,000 Francs. (TSCGP, trang 134-135).

C.- Các giáo sĩ thừa sai tích cực giúp thực dân Pháp mau chóng bình định lãnh thổ thuộc địa.

1.- Giám mục Puginier (1835-1892): Dựa vào thế lực mạnh của hội Thừa Sai Paris đối với chính quyền Pháp, giám mục Puginier đã tỏ thái độ coi thường các quan chức thuộc địa tại Việt Nam. Vào tháng 7-1874, giám mục Puginier viết thư mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc Việt. Tháng 8-1885, giám mục Puginier đòi tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường bỏ tù. Giám mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa. Y tuyên bố: “ Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ” (TSCGP, trang 560-562)

Puginier đòi hỏi chính quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới nho sĩ Việt Nam (Văn Thân) vì họ được dân chúng kính trọng, họ không chấp nhận sự đô hộ của Pháp và chẳng ai trong số họ chịu theo đạo.

Năm 1886, giám mục Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát Diệm tăng viện cho Pháp 5,000 giáo dân binh để phá chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng.

Giám mục Puginier là người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên chính sách bình định Việt Nam của thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho Pháp rất nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập báo cáo về các cuộc phản công của triều đình Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.

Puginier chết tại Hà Nội năm 1892. Hắn được chính phủ Pháp truy tặng Bảo Quốc Huân Chương và truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để xác nhận công lao to lớn của giáo sĩ thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ hồi cuối thế kỷ 19.

2.- Giám mục Gauthier (1810-1877) : Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu, được cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ năm 1846, có 66,350 giáo dân rải rác trong 346 xứ dạo (TSCGP, trg 528-530).

Trong bức thư gửi đô đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier và Puginier đã thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập một chính phủ Công giáo tại Bắc Việt (theo “Christianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 par Cao Huy Thuần – Paris 1960, p. 306).

Năm 1874, Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các đội dân quân võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh phá các làng bên lương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.

Giám mục Gauthier và Puginier có nhiều tên đệ tử trung thành xuất sắc, trong số đó có Nguyễn Trường Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều.

II. Tội Ác bán nước theo giặc của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.

Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600,000 người Việt Nam đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay tiêu diệt họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.

Hiện tượng đầu tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây. Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 người trong số họ để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.

Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau đây :

  1. Tổng Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.

  1. Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.

  1. Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .

  1. Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này!

  1. Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định. Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.

    Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản phác họa một cách trung thực những giai đoạn của Việt Nam vong quốc sử hồi nửa cuối thế kỷ 19. Đây là điều cần thiết để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn đề cao cảnh giác phòng ngừa những thế lực ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa tôn giáo để xâm lăng chủ quyền và phá hoại nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.

    Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hai tổ chức này không thể phủ nhận trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với thực dân Pháp chống lại nước Việt Nam gần một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa tk 20). Gần đây, Giáo Hoàng đã thú nhận những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc gia và dân tộc trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam mới lên tiếng tạ tội với dân tộc về những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ Quốc ?

    Các bạn Công giáo Việt Nam: để tỏ tình dân tộc, các bạn cần áp lực Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tách hẳn khỏi ảnh hưởng của Vatican (như Anh Quốc đã làm trước đây, và Trung Quốc đang làm). Tại sao các bạn không thể “hiệp thông thẳng với Chúa” mà không cần trung gian của Vatican hay cái giáo hội tay sai của Vatican ?

    Charlie Nguyễn

    Sept 2003

Wednesday, August 13, 2008

Charlie Nguyễn - Trở Lại Vấn Đề: A. de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ

Các bạn có hứng thú với vấn đề A. de Rhodes và chữ "quốc ngữ" nói riêng và chuyện nguyên nhân Việt Nam bị bắt làm nô lệ nói chung xin mời thưởng thức bài sau đây của bác Charlie Nguyễn, một người rành sáu câu về đạo Chúa.

Một bài khác cũng về vấn đề này của bác Trần Chung Ngọc có thể đọc ở đây.

-----------------------------------------

Trở Lại Vấn Đề: Alexandre de Rhôdes và Chữ Quốc Ngữ

((Riêng tặng tập thể Thánh Gia Ninh Cường - Bùi Chu))

Mấy điều sơ lược về lịch sử chữ viết và nguồn gốc chữ quốc ngữ

Các nhà nhân chủng học cho biết loài người đứng thẳng (homo erectus) đã có mặt trên trái đất từ 2 triệu năm trước. Loài người khôn ngoan (homo sapiens) mới xuất hiện 160 ngàn năm và tiến hóa thành loài người chúng ta hiện đại. Chắc chắn là loài người khôn ngoan (homo sapiens) đã biết dùng tiếng nói để thông tin với nhau từ nhiều chục ngàn năm trước, nhưng chữ viết của loài người thì chỉ mới được phát minh cách đây hơn 5000 năm mà thôi.

Theo các nhà khảo cổ thì chữ viết đầu tiên của loài người là chữ viết của dân tộc Sumer ở Babylon (phía nam Iraq ngày nay) được phát minh năm 3150 TCN , tức cách đây 5153 năm. Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra loại chữ tượng hình (pictographic / giống như chữ Hán) nhưng họ chỉ dùng loại chữ này một thời gian ngắn rồi bỏ đi vì loại chữ này bất tiện, khó nhớ, học chữ nào biết chữ đó nên mất rất nhiều thời gian học đọc và học viết. Họ sáng chế ra 18 ký hiệu thay cho 18 âm căn bản, rồi dùng các ký hiệu đó để ghi âm cho mọi tiếng khác. Các ký hiệu này trông giống như nêm cối (cunei) nên họ gọi loại chữ này là cuneiform (chữ viết hình nêm cối). Sự xuất hiện loại chữ Cuneiform năm 3150 TCN trở thành một dấu mốc quan trọng của lịch sử nhân loại, bởi vì tất cả những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được gọi là thời tiền sử (prehistoric). Những người viết sử Sumerians là những người viết sử đầu tiên trên thế giới. Các tu sĩ Sumerians thu thập các chuyện thần thoại dân gian, viết thành sách, trong đó có các chuyện về Vườn Địa Đàng Gan-Eden (Archeology in the Land of the Bible – Abraham Negrey Shoken Books, NY 1977). .Trong nhiều thế kỷ trước Công nguyên, chữ Cuneiform và ngôn ngữ Sumerian trở thành ngôn ngữ giao dịch trong toàn vùng Trung Đông và Cận Đông, nền văn hóa của dân tộc Sumer được nhiều dân tộc quanh vùng theo Điển hình là đạo thờ bò El (Elohim) của Abraham (sinh trưởng tại UR thuộc Babylon) trở nên một tôn giáo phổ biến ở Do Thái và các nước Ả Rập. Câu chuyện thần thoại Vườn Địa Đàng của người Sumer trở thành rường cột của đạo Kitô và từ đó phát sinh ra lý thuyết về Tội Tổ Tông, về ơn cứu chuộc của chúa Kitô, về tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, vân vân và vân vân…Chuyện thần thoại Tamuz của Babylon là cha đẻ ra ý niệm về Chúa Cứu Thế của đạo Kitô (Babylon Mystery Religion – Ancient and Modern – Ralph Woodrow Evangelistic Association – Riverside, CA). Sự phát minh ra chữ viết là một biến cố vô cùng quan trọng trong lịch sử văn hóa nhân loại. Chữ viết là phương tiện chuyển tải phổ biến tư tường tới mọi người và lưu truyền tư tưởng qua nhiều ngàn năm. Nếu không có chữ viết, loài người sẽ không có lịch sử, không có văn hóa, không có triết học, khoa học, không có tiến bộ và thế giới ngày nay hoàn toàn khác ! Hơn 14 thế kỷ sau, đến đời nhà Thang (1700 TCN), người Trung Hoa phát minh ra chữ viết tượng hình, hình tròn, sau đó được đổi sang hình vuông và được hoàn chỉnh (thành chữ viết thông dụng ngày nay) trong thời nhà Hán (206 TCN – 220 sau CN), do đó được gọi là chữ Hán (Hán tự)

Năm 1600 TCN, người Hy Lạp phát minh ra một hệ thống ký hiệu ghi âm (a phonetic system of writing). Một thế kỳ sau, vào năm 1500 TCN, người Latinh (tức người La Mả cổ) mô phỏng ký hiệu ghi âm của Hy Lạp để sáng chế ra mẫu tự A,B,C,D,… (ta gọi là mẫu tự la tinh).

Những người đầu tiên có ý nghĩ la-tinh-hóa ngôn ngữ Á châu (gồm có tiếng Nhật, tiếng Tàu và tiếng Việt) là các tu sỉ dòng Tên (Jesuists) Bồ Đào Nha giảng đạo tại Á châu trong thề kỷ 17. Đây là một sự thật lịch sử hiển nhiên mà hầu như các nhà nghiên cứu văn hóa và giáo hội Công giáo Việt Nam, cũng như các giới chức thực dân Pháp (trước 1945) đã vô tình hay cố ý bỏ quên để chỉ đề cao một mình Alexandre de Rhôde như vị thánh tổ duy nhất đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ.

Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó sưu tầm các tài liệu còn lưu trữ tại văn khố Dòng Tên tại La Mã, Madrid, Lisbone (“Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ” – trang 21 của Huỳnh Ái Tông – so sánh các bản lưu trữ mới thấy Alexandre de Rhôde chưa định chuẩn được cách phiên âm tiếng Việt. Các tài liệu khác của các bậc thầy Bồ Đào Nha của Alexandre de Rhôde như Christoforo Baris, Jao Ruiz, Gaspa Louis, Antonio de Fontes, Gasparo d’Amiral mới thấy phiên âm tiếng Việt của họ đã định chuẩn như chúng ta viết ngày nay.)

Như vậy, việc tôn vinh Alexandre de Rhôde lên tận mây xanh hoàn toàn là một chuyện thần thoại hoang đường. Chữ quốc ngữ Việt Nam cũng không phải là chữ duy nhất “la tinh hóa” tại Á Châu ngày nay. Chữ Mã Lai và Indonesia (Nam Dương) cũng được La Tinh hóa trong thời kỳ thuộc địa. Tiếng Tagalog là một trong 168 ngôn ngữ của người Phi Luật Tân đã được la-tinh-hóa. Điều đáng chú ý là các chữ quốc ngữ la-tinh-hóa của Mã Lai, Nam Dương và Tagalog đều không có dấu rắc rối như chữ quốc ngữ của ta.

Vấn đề chữ quốc ngữ Việt Nam, các nhà văn hóa Việt Nam thực sự chưa thống nhất quan điểm xác nhận ai là tác giả đã phát minh ra nó. Ngoài ra còn một vấn đề khác không kém quan trọng, đó là: chữ quốc ngữ là một món quà tặng của ngoại nhân cho dân tộc Việt Nam hay chỉ là một chiến lợi phẩm do ta tịch thu của địch ?

Tôi đã viết bài bày tỏ ý kiến của tôi về những vấn đề trên dưới tựa đề “Dòng Tên, thánh Phanxico Xavier, cố đạo Đắc Lộ và chữ Quốc Ngữ”, tức chương 2, phần III trong cuốn “Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn – Giao Điểm xuất bản Hè 2001 (trang 297-320). Phần cuối của bài viết này (từ đoạn viết về Phanxico Xavier) đã được đăng trong cuốn “Alexandre de Rhôde, người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” gồm 9 tác giả - Giao Điểm xuất bản năm 1998 (trang 160-166).

Tôi thiết nghĩ những điều trình bày trong các bài viết trên đã biểu lộ trọn vẹn quan điểm của tôi về chữ quốc ngữ, nên tôi tự thấy không còn điều gì để nói thêm về vấn đề này nữa. Tuy nhiên, gần đây có hai sự việc vừa mới xuất hiện trong giới gọi là “trí thức” Việt Nam làm tôi phải buộc lòng trở lại với vấn đề “Alexandre de Rhôde và chữ Quốc Ngữ”:

I.- Vấn đề thứ Nhất : Phải chăng các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Tống Nho là những người có công lớn với văn hóa Việt Nam ?

Houston, thành thố lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, với trên 100 ngàn người Việt định cư, ngày 15 tháng 6 năm 2003 vừa qua, tại nhà hàng Ocean Palace, một tổ chức mệnh danh là “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam – Houston” long trọng tổ chức buổi lễ “VINH QUI” theo nghi lễ cổ truyền Việt Nam, để vinh danh 58 sinh viên nam nữ Việt Nam cư ngụ tại Houston đã tốt nghiệp trong năm 2003 tại các trường đại học Mỹ ( gồm đủ các phân khoa các ngành và thuộc các trường đại học ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ).

Điểm danh 58 tân khoa có hình in trên từng trang của tập kỷ yếu “VINH QUI – Vietnamese Traditional Ceremony Honoring Graduates 2003” (dày 114 trang khổ lớn, in trên giấy láng đẹp ngày 15-6-2003), tôi nhận thấy phần lớn là những thanh niên nam nữ trẻ tuổi, nét mặt khôi ngô rạng rỡ tươi vui với tinh thần lạc quan hướng về tương lai. Phần lớn họ đã tốt nghiệp thành bác sĩ y khoa, tiến sĩ dược khoa, kỹ sư các ngành, tiến sĩ âm nhạc. tiến sĩ sinh vật học, tiến sĩ sử học,… Nhiều người khác đậu bằng BBS, BBA về quản trị tài chánh, ngân hàng, v.v…

Nói chung, họ là những người đáng được cộng đồng chúng ta vinh danh. Tuy nhiên, trong số họ có một tên bất xứng lộn sòng không đáng vinh danh chút nào, đó là tên linh mục Đỗ Văn Lực, tốt nghiệp tiến sĩ thần học (PhD of Theology – 2003 - tại trường Houston Graduate School of Theology).

Tên Đỗ Văn Lực hiện đang hành nghề linh mục tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại Houston. Thần học Công Giáo một môn học đáng khinh bỉ dựa trên một thần thuyết loạn luân cực kỳ ngu xuẩn, phản khoa học. Vậy việc vinh danh tên linh mục “tiến sĩ thần học” Đỗ Văn Lực thuộc giáo xứ La Vang trong lễ Vinh Qui ngày 15-6-2003 vừa qua của TTVHVN-Houston phải được coi là một sự lầm lẫn đáng tiếc. Đó là một vết đen văn hóa của cái tổ chức tự xưng là TTVHVN-Houston, nhưng thật sự nó đang nhằm phá hoại văn hóa Việt Nam.

Hành vi phá hoại văn hóa Việt Nam thứ hai là thuyết trình viên của TTVHVN-Houston đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong buổi lễ là: “Các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Nho học là những người có công với văn hóa Việt Nam !!!”

A.- Các giáo sĩ thừa sai là ai ? TTVHVN-Houston hết lời ca ngợi những giáo sĩ thừa sai dã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Thật sự qúi vị đã nghiên cứu về chữ quốc ngữ rất phiến diện. Qúi vị đã không suy xét rốt ráo về tội ác của bọn giáo sĩ thừa sai là phá hủy văn hóa cổ truyền Việt Nam để thay bằng văn hóa Công giáo độc tôn. Linh mục Trần Thái Đỉnh đã đưa ra một nhận định rất sáng suốt như sau: “Tiêu diệt các tôn giáo khác để tôn giáo mình độc trị, tiêu diệt văn hóa bản địa cho văn hóa Công giáo độc diễn, tiêu diệt sinh lực của các dân tộc chậm tiến để các thế lực đế quốc thực dân xâm lăng. Đó là truyền thống của Vatican” (Xin đọc “Cái nhìn về Phật Giáo trong Phép Giảng Tám Ngày” – Kitô giáo từ thực chất đến huyền thoại - nhiều tác giả, nxb Văn Hóa – USA 1996)

Nghiên cứu lịch sử thế giới, học giả Mac Kher đã viết : “Sự tiến tới của Kitô giáo tại Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và phần lớn Phi Châu luôn luôn dẫn tới sự tiêu diệt hoàn toàn các tôn giáo đa thần và các nền văn hóa tiền-kitô” (The advent of Christianity in Europe, America, Australia and large parts of Africa always led to the elimination of the pre-Christian polytheistic religions and cultures)

Bọn truyền giáo Tây Ba Nha là thủ phạm tiêu diệt các nền văn hóa Aztec, Inca của người Da Đỏ tại Mỹ Châu trong thế kỷ 16 và 17.

Tội ác lớn nhất về văn hóa của giáo hội Công giáo La Mã là đã hủy diệt toàn bộ các sách khoa học, triết học, toán học rất tiến bộ của Hy Lạp trong các thế kỷ 3~5 khiến cho nền văn minh của nhân loại bị lùi lại 10 thế kỷ (Deceptions and Myths of the Bible – by Lloyd Graham – A Citadel Press Book 1991 - pp. 294, 448, 450).

Riêng đối với lịch sử Việt Nam, Alexandre de Rhôde phải được coi là kẻ thù số một vì chính y là kẻ đầu tiên có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương – pages 16-17. (“Sự Du Nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19” của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm - Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam – Hà Nội 2000 – trang 123). Phê bình về Alexandre de Rhôde và các giáo sĩ thừa sai, giáo sư Kiệm (sách dẫn chiếu, trang 300-301) viết: “Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, dẵ gây nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm băng hoại nền tảng của cộng đồng. Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bầt cứ tôn giáo nào khác …. Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo. Sự cấm đạo của nhà cầm quyền Việt Nam và tâm lý bất hòa giữa lương giáo trong dân chúng còn kéo dài đến ngày nay chính là những phản ứng tất nhiên chống lại sự xúc phạm đó và đồng thời là một hành động tự vệ chính đáng của một dân tộc đã có một nền văn hóa định hình và một ý thức tự tôn dân tộc cao.

Trên đây chỉ là mấy nét đại cương về tội ác của bọn giáo sĩ Tây phương đối với dân tộc Việt Nam nói chung, và đối với văn hóa của dân tộc ta nói riêng. Xin đọc thêm tác phẩm “Alexandre de Rhôde, người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” 9 tác giả - Gia Điểm xuất bản 1998 – và bài viết “Hồ Sơ Tội Ác của hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19” của Charlie Nguyễn - tháng 8, 2003. (giaodiemone.com)

B.- Các Học Sĩ là ai ? Học sĩ là những người đỗ đạt những bằng cấp Hán học ngày xưa tại nước ta, thịnh hành từ đời Hậu Lê (1428-1527). Kể tử thời Hậu Lê, chính sách của triều đình Việt Nam là loại bỏ tinh thần “tam giáo” để chỉ đề cao vai trò độc tôn của Nho giáo và Hán học mà thôi. Do chính sách đó, xã hội Việt Nam xuất hiện một giai cấp trí thức Hán học được gọi là Học sĩ. Họ trở thành những phần tử trí thức với tinh thần vọng ngoại, luôn luôn coi các bậc thầy Trung Quốc là những khuôn vàng thước ngọc cho mọi vấn đề trong cuốc sống của họ. Từ tinh thần vọng ngoại, họ rất dễ dàng trở thành những kẻ “ỷ ngoại”, thích dựa vào sức mạnh của ngoại bang và cuối cùng họ đã đi theo giặc phản bội tổ quốc (trường hợp Lê Chiêu Thống). Chính sách sai lầm về văn hóa của thời Hậu Lê đã mau chóng đưa dân tộc ta đến chỗ suy tàn. Đó chính là quốc nạn “Trịnh Nguyễn phân tranh” kéo dài 259 năm (1527-1786) đưa đất nước đến gần thảm họa diệt vong với bao cảnh điêu linh loạn lạc, với núi xương sông máu của thảm cảnh nồi da sáo thịt.

Giới học sĩ Tống nho tiếp tục là một giai cấp trí thức rường cột của các triều đình nhà Nguyễn. Chế độ độc tài văn hóa và tư tưởng giáo điều gò bó của tầng lớp học sĩ thống trị xã hội Việt Nam từ thời Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cho đến Bảo Đại. Chính sách này đã tạo ra những bọn “học sĩ bán nước” như cha con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm. Họ đều là những quan đại thần của nhà Nguyễn rất nặng đầu óc Tống nho cổ hủ, lại cộng thêm tinh thần giáo điều độc tôn của Công giáo thời Trung Cổ. Cho nên chính sách của Diệm (1954-1963) là chính sách độc tài, phi nhân và phi dân tộc.

Tinh thần học sĩ Tống Nho là tinh thần nô lệ tư tưởng ngoại lai. Từ “vọng ngoại” đến “sợ ngoại” và cuối cùng là đem mạng sống toàn dân trao cho ngoại bang. Ngày 18-12-1960, Hội đồng Giám mục Việt Nam và toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm cầm đầu đã long trọng tổ chức Lễ “Dâng Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”, thực chất là dâng tổ quốc Việt Nam cho Vatican, con bạch tuộc của chủ nghĩa Đế Quốc Tinh Thần. Một việc làm thật ngu xuẩn của nhà Ngô và Hội đồng Giám mục Việt Nam, mặc dầu họ biết rõ là hơn 90% dân chúng không theo tôn giáo của họ.

Ngày nay, ông Nguyễn Trần Qúi, tổng thư ký và nhóm chủ trương “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam” (gồm 13 người tại Houston) đã lưu manh núp dưới danh nghĩa Văn Hóa Việt Nam để phá hoại Văn Hóa Việt Nam bằng cách đầu độc tinh thần giới trẻ Việt Nam trong buổi lễ Vinh Qui vừa qua bằng cách gieo vào đầu óc họ cái ý tưởng sai lầm nguy hiểm: “Giáo sĩ thừa sai và học sĩ Tống Nho là những người có công với văn hóa Việt Nam”. Điều đáng buồn là trong danh sách Ban Cố Vấn của TTVHVN-Houston có tên: bác sĩ Hoàng Xuân Chỉnh, cựu giáo sư Đại Học Y Khoa Saigon và Huế; giáo sư Mai Văn Lễ, cựu giáo sư Đại Học Luật Khoa Saigon và Huế; nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cựu giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon.

Qúi vị đều là những khuôn mặt văn hóa nổi tiếng tại Việt Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau này. Nhưng điều đáng tiếc là qúi vị đã vì cả nể nên đã bị đám học trò bất lương lợi dụng danh nghĩa qúi vị và đem qúi vị ra làm bình phong che đậy hành động bất chính của chúng.

Tôi cũng tự hỏi: Phải chăng ông Tổng Thư Ký Nguyễn Trần Qúi và đa số trong thành phần của nhóm chủ trương là những tín đồ Công giáo cuồng tín … nên mới có những hành động phá hoại văn hóa Việt Nam một cách mù quáng như vậy. Thật đáng tiếc !

II.- Vấn đề kế tiếp : Phải chăng chữ Quốc Ngữ là sự đóng góp vô cùng lớn lao của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho dân tộc Việt Nam và chúng ta phải biết ơn GHCGVN là người đã sáng tạo ra nó ?

Trong “Thánh Gia Bản Tin” số 41 và trên trang nhà của Tập Thể Thánh Gia (www.angelfire.com/rnb/thanhgia) có đăng bài “Cảm Ơn Chữ Quốc Ngữ” của một thành viên Thánh Gia là anh Nguyễn Dương An ở Việt Nam. Nguyên văn như sau :

Cảm ơn chữ Quốc Ngữ !

Tôi đã đọc nhiều tài liệu chống đối và bài bác Giáo Hội Công Giáo VN, và gần đây, tôi cũng đọc được những bài như vậy trên trang web của Giao Ðiểm. Theo các tác giả đó, Giáo Hội Công Giáo VN không đem lại cho dân tộc VN một lợi ích gì, ngược lại, còn làm hại cho nền văn hóa, cho phong tục, cho đời sống xã hội của dân tộc VN, tóm lại, chỉ làm hại mà thôi.. Có một điều làm tôi rất ngạc nhiên : tất cả những bài đó đều viết bằng chữ Quốc Ngữ, là thứ chữ do một linh mục Công Giáo sáng lập từ mẫu tự Latin. Chính nhờ có thứ chữ Quốc Ngũ này mà những tác giả đó có thể viết bài chống đối GHCGVN, cũng như dùng chữ Quốc Ngữ này để truyền bá tư tưởng của mình đến cho đồng bào VN. Những tác giả này đang tận dụng một trong những ích lợi lớn lao mà GHCGVN đem lại cho dân tộc VN. Thế mà họ dám lớn tiếng phủ nhận sự đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN !!! Phải chăng những tác giả này không biết nguồn gốc của chữ Quốc Ngữ ? Do đó, họ đã tự mâu thuẫn với họ. Nếu đúng như vậy thì kiến thức của họ còn non dại quá ! Mỉa mai thay !

Mỗi khi anh viết một chữ Quốc Ngữ là anh đã nhắc lại sự đóng góp vô cùng quý báu của GHCGVN cho dân tộc VN, anh không biết điều đó sao ?

Nếu muốn phủ nhận những đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN thì các tác giả đó đừng dùng chữ Quốc Ngữ nữa, hãy dùng một thứ chữ khác. Bắt chước các vua nhà Nguyễn, các chiếu chỉ cấm Ðạo đều được viết bằng chữ Hán (cũng gọi là chữ Nho), không có cái nào viết bằng chữ Quốc Ngữ ! Có làm được như vậy không ? Tôi mong chờ sự “hiểu biết” một cách hợp lý của các tác giả đó !

Nguyễn Dương An

Chúng ta thường nói “cám ơn Trời Phật”, “cám ơn Chúa”, hoặc cám ơn người này người khác, chứ không bao giờ lại nói cám ơn một vật vô tri vô giác như “cám ơn chữ Quốc Ngữ” ! Đáng lý phải nói là cám ơn người đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ thì mới có ý nghĩa.

Theo Nguyễn Dương An thì chữ Quốc Ngữ là thứ chữ do một một linh mục Công giáo sáng lập từ mẫu tự la-tinh. Hẳn ý bạn muốn nói đến linh mục Alexandre de Rhôde là người đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ. Nhưng rõ ràng Alaxandre de Rhôde là một người Pháp, chứ có phải là một người Công giáo Việt Nam đâu, mà anh dám nói chữ Quốc Ngữ là công lao của Giáo hội Công giáo Việt Nam đóng góp cho dân tộc Việt Nam ?

III.- Chữ Quốc Ngữ đã được sáng tạo trong khuôn khổ chiến lược xâm lăng Á Châu của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17.

Từ thế kỷ 15, kỹ nghệ đóng tầu của Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã đạt được nhiều tiến bộ mới. Nhờ có súng hỏa mai và kỹ thuật hàng hải, nhiều nhà thám hiểm Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã thực hiện được những cuộc viễn du làm thay đổi lịch sử nhân loại:

1.- Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ năm 1492

2.- Vasco de Gama là người đầu tiên vượt mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi tới Ấn Độ năm 1497.

3.- Alvarez Cavral vượt qua Đại Tây Dương tìm ra Brazil năm 1500.

4. Alfonso de Albuquerque vượt qua Ấn Độ Dương năm 1503, chiếm tỉnh Goa của Ấn năm 1510, chiếm Malacca năm 1511 để mở đường cho Bồ Đào Nha tiến vào Trung Quốc và Nhật Bản. Chính sự kiện này đã làm nảy sinh tham vọng của Bồ Đào Nha là xâm lăng toàn bộ Á Châu.

Chiến lược của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 là trước hết phải chiếm Trung Hoa và Nhật Bản làm thuộc địa, đồng thời biến hai nước này thành hai nước Công giáo, để từ đó sẽ chinh phục toàn Á Châu theo thế cờ domino. Do đó, vào cuối năm 1511, hạm đội Bồ Đào Nha đã rời Malacca tiến lên phía Bắc gần Macao để yểm trợ cho các nhà truyền giáo thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha đang hoạt động tại Nhật và Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến lược xâm lăng và truyền đạo của Bồ Đào Nha tại Á Châu trong thế kỷ 16 và 17 đã không thành công vì không có một ông vua Nhật hay Tàu nào chịu theo đạo cả. Năm 1638, người Nhật đã thẳng tay tàn sát một lúc 37000 giáo dân tại Nagasaki và đánh đuổi người Bồ Đào Nha ra khỏi nước Nhật. Mọi ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Nhật đến đây là chấm dứt.

Như chúng ta đã biết, từ giữa thế kỷ 15, hai nước Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã dẫn đầu các cuộc thám hiểm đất mới để xâm chiếm thuộc địa và truyền đạo. Do các tranh chấp về đất đai và quyền lợi, Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha có thể trở thành hai quốc gia thù địch. Do đó hai nước đã thỏa thuận với nhau đưa vụ tranh chấp này ra trước toà Thánh Vatican để giáo hoàng Alexander VI phân xử. Do sắc chỉ Inter Coetera năm 1493, giáo hoàng Alexander VI chia thế giới làm hai phần qua đường ranh tưởng tượng chạy từ Bắc cực xuống Nam cực chạy qua quần đảo Acores. Phía Tây của đường ranh này thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Tây Ban Nha. Phía Đông đường ranh này bao gồm toàn vùng Á Châu thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Bồ Đào Nha. Trong thực tế, kể từ năm 1615, mọi công cuộc truyền đạo tại Việt Nam thuộc quyền điều động của dòng Tên Bồ Đào Nha, có trụ sở tại Nhật Bản, với sự phối hợp của tòa Giám Mục Bồ Đào Nha tại Macao.

Cũng do độc quyền truyền giáo mà Tòa Thánh đã dành riêng cho Bồ Đào Nha tại Á Châu, nên suốt trong các thế kỷ 15 và 16, các nhà truyền giáo Pháp hoàn toàn vắng bóng tại Viễn Đông. Năm 1619, Alaxandre De Rhôde lên tàu từ thủ đô Lisbone của Bồ Đào Nha để đến giảng đạo tại Việt Nam, không phải với tư cách là một giáo sĩ Pháp, mà là một giáo sĩ đặt dưới quyền bảo trợ của triều đình Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ chiến lược xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu, Bồ Đào Nha chú ý đến việc phiên âm theo mẫu tự la-tinh ưu tiên là tiếng Tàu, tiếng Nhật, và sau đó là tiếng Việt. Cuốn từ vựng Bồ-Hoa được soạn thảo sớm nhất vào năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật được hoàn thành năm 1595. Cuốn giáo lý tiếng Nhật được la-tinh-hóa năm 1592. Tất cả các kinh nghiệm về việc la-tinh-hóa chữ Nhật và chữ Tàu nói trên đều rất hữu ích cho việc phát minh chữ Quốc Ngữ của Việt Nam sau này.

IV.- Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha ở Đàng Trong (Quảng Nam) là những người đã thật sự sáng tạo chữ Quốc Ngữ trong các năm 1617-1622.

Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha bắt đầu truyền đạo ở Đàng Trong từ 1615. Từ 1617 họ khởi công la-tinh-hóa tiếng Việt. Người có công đầu trong việc này là linh mục Francis de Pina. Ông sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo tại Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ sở của dòng Tên Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của Nguyễn Phước Nguyên, nay là huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là linh mục Buzomi cũng là một nhà ngôn ngữ học, và chình ông đã sáng tác một hệ thống văn phạm tiếng Việt.

Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu tiên dịch các kinh la-tinh sang tiếng Việt. Đó là kinh Lạy Cha (Pater Noster), kinh Kính Mừng (Ave Maria). Kinh Tin Kính (Credo), kinh Sáng Danh (Gloria), ….

Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một hệ thống ghi âm theo mẫu tự la-tinh thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm 1624, linh mục Pina mở trường dạy nói tiếng Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại Thanh Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có Alexandre de Rhôde và Antonio de Fontes.

Alexandre de Rhôde được linh mục Pina dạy tiếng Việt từ 1624 đến cuối năm 1625 thì chẳng may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại bến cảng Đà Nẵng.

Linh mục Pina đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ, nhưng ông không phải là người duy nhất, vì có nhiều người khác đã đóng góp những nỗ lực của họ trong việc phân tích văn phạm, phân tích ngữ âm và thanh điệu của tiếng Việt. Do đó, công trình sáng tạo chữ quốc ngữ là một công trình tập thể của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha giảng đạo tại Á Châu trong thế kỷ 17.

Nhiều người thường căn cứ vào việc xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La tại Rome năm 1651 để xác quyết Alexandre de Rhôde là tác giả đã phát minh ra chữ quốc ngữ. Sự thật Alexandre de Rhôde không phải là tác giả của cuốn tự điển này. Ông chỉ là người viết thêm vào tự điển phần la-tinh mà thôi. Hai phần quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là tự điển Việt-Bồ thuộc công lao của linh mục Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và tự điển Bồ-Việt của linh mục Bồ Đào Nha Antonio de Barbose. Alexandre de Rhôde chỉ là một biên tập viên chứ không phải là tác giả của cuốn tự điển quan trọng này, nhất là vể phần Việt ngữ, nên ông ta không thể được coi là cha đẻ của chữ quốc ngữ được

Nhưng dù cho chữ quốc ngữ đã được phát minh do Alexandre de Rhôde hay do các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17 thì bản chất của nó vẫn không thay đổi: Chữ Quốc Ngữ không phải là một món quà tặng do ngoại nhân có lòng tốt đem lại cho chúng ta. Nó thực sự chỉ là một thứ vũ khí do địch sáng chế để truyền vào dân tộc ta một thứ tôn giáo phi nhân, nhằm mục đích nô dịch nhân dân ta và đưa tổ quốc ta vào vòng nô lệ của chúng.

Nay chúng ta dung chính vũ khí đó của địch để đánh địch và tay sai. Đó là công việc mà các tác giả Giao Điểm đang làm. Các tác giả Giao Điểm đang noi gương tiền nhân dùng đòn “gậy ông đập lưng ông” trong mục tiêu xây dựng đất nước và bảo vệ văn hóa dân tộc: Noi gương Lý Thường Kiệt xưa kia dùng chữ Hán để viết “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư” để xác nhận chủ quyền của tổ quốc. Trần Hưng Đạo dùng chữ Hán để viết “Hịch Tướng Sĩ” động viên toàn dân chống quân Nguyên. Nguyễn Trãi dùng chữ Hán viết “Bình Ngô Đại Cáo”. Trong thập niên 1930, các nhà cách mạng yêu nước Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã cổ súy việc học chữ quốc ngữ để mở mang dân trí và phổ biến tư tưởng cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp. Đòn “gây ông đập lưng ông” là một chiến thuật lâu đời trong truyền thống chiến đấu bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.

Để cụ thể hóa thái độ của chúng ta đối với bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ, chúng ta hãy hình dung một tên cướp đột nhập vào nhà chúng ta với một con dao. Khi bị cảnh sát rượt đuổi, tên cướp đã vứt bỏ lại con dao tang vật. Hành động đúng nhất là chúng ta hãy sử dụng con dao tang vật vào những việc hữu ích, như cắt rau, thái thịt, v.v… Chạy theo tên cướp để cám ơn nó đã để lại con dao rõ ràng là một hành vi ngu xuẩn. Hô hào mọi người phải cám ơn bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng là một hành vi ngu xuẩn tương tự.

Charlie Nguyễn

Sept 2003

Friday, August 8, 2008

Dân Ta Không Biết Sử Ta?

Nói phét trên blog mới thoáng thế mà đã hơn một năm. Một trong những ấn tượng mạnh nhất mà tôi thấy được là loại dân blog ham nói chuyện chính trị thì thường hoặc là mù mờ hoặc là mù tịt về lịch sử nhưng thường phán rất hăng và rất kêu!

Một trong những điều kiện căn bản nhất để có thể có được cái gọi là "quan điểm chính trị" là phải biết lịch sử và biết suy luận logic dự trên những sự kiện, con số khách quan. Điều này trên các blog nói phét về chính trị là cực kỳ hiếm. Sự kiện lịch sử được trưng ra thì hiếm, dẫm đạp lên lịch sử bằng định kiến thì nhiều!

Cái đó đúng ra cũng không có gì ngạc nhiên, trong cái thế giới của những người rảnh chuyên môn nói phét này đó là điều có thể thấy trước được.

Nhưng hôm nay đọc được ý kiến của "nhà sử học" Dương Trung Quốc trên tuanvietnam.net mới thấy ngỡ ngàng và nổi da gà và hoàn toàn bất ngờ!

Bài này có tựa là "Đưa Việt Nam đến với thế giới bằng những tên đường" trong đó có đoạn bác Quốc trích lời của ông Võ Văn Kiệt như sau:

"Trong những lần làm việc cuối cùng, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt rất trăn trở, khát khao sự tri ân đối với bạn bè quốc tế đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam phát triển thắng lợi như ngày nay. Ông nhắc những nhân vật xa xưa như Alexandre de Rhodes và muốn dựng tượng người góp phần khai sinh ra chữ quốc ngữ Việt Nam dù ở TP HCM đã phục hồi tên một con đường đặt theo tên nhà ngôn ngữ học người Pháp này...

Ông cũng nhắc đến cả những nhân vật như Anh Morison, người đã tự thiêu để phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, Henri Martin, Raymonde Dien, những người xả thân tinh thần vì Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông Kiệt rất muốn có những cơ hội thể hiện đạo lý tri ân nguồn cội, không chỉ vì thắng lợi, nỗ lực của chúng ta mà còn vì sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế."

Điều này chứng tỏ ở Việt Nam chuyện mù mờ lẫn lộn về lịch sử không phải là chuyện riêng của dân đen hay những em bé lười biếng không chịu học mà còn là của cả giới lãnh đạo cao nhất và thậm chí cả các "nhà sử học" nữa!

Trong đoạn văn trích lời bác Kiệt ở trên có những điểm suy nghĩ ra thấy rất kinh khủng:

Điểm thứ nhất là tên đường Alexandre de Rhodes đã được phục hồi ở TP HCM. Những người có trách nhiệm lại có thể mù mờ lịch sử đến nỗi không biết A. de Rhodes là ai? Nếu không mù mờ thì tại sao lại phải dẹp bỏ rồi lại "phục hồi". Chuyện về de Rhodes không phải là chuyện xa xưa thời vua Hùng mà là chuyện gần đây, nếu đặt trong không gian chiều dài lịch sử thì nó mới chỉ là ngày hôm qua! Như vậy mà đã lẫn lộn không biết de Rhodes là có công hay có tội hay chả có gì cả?

Chẳng những đã "phục hồi" tên đường mà còn cần phải dựng tượng nữa! Như vậy chắc chắn là phải có công to lắm! Một người có công to đến nỗi phải cần dựng tượng mà có thời bảng tên đường phải bị dỡ xuống? Đây là một sai lầm rất to lớn, như vậy lãnh đạo ngày xưa hay bây giờ là mù mờ về lịch sử đến mức nặng như thế?

Điều kinh khủng thứ hai là điều bác Kiệt nói về de Rhodes đã được một "nhà sử học" có tiếng tăm là ông Quốc công nhận! de Rhodes có công tới mức phải có tên đường và dựng tượng, như vậy còn được hơn cả ông Morrison, một người đã tự thiêu phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Điều kinh khủng kế tiếp là khi chúng ta phân tích và so sánh động cơ việc làm của de Rhodes và ông Morrison thì nó hoàn toàn trái ngược nhau. Một bên là động cơ cùng quân xâm lược giúp đỡ lẫn nhau thôn tính Việt Nam còn một bên là động cơ giúp người Việt Nam đuổi quân xâm lược.

Không có de Rhodes thì chúng ta sẽ không có chữ để mà viết? Chúng ta là một dân tộc không có chữ viết trước khi de Rhodes "khai sinh" ra chữ "quốc ngữ"?

De Rhodes chỉ là người biên tập lại công trình của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha trước đó, như vậy có cần dựng tượng và gắn tên đường luôn cho những nhà truyền giáo kia để được đủ bộ và công bằng không?

Mục đích của họ dùng mẫu tự Latin trước là để dễ dàng cho họ trong việc ghi chép tiếng Việt và điều này là nhằm phục vụ cho mục đích cao nhất là công việc truyền đạo ở Việt Nam. Họ truyền đạo để nắm phần hồn của người Việt hướng về Vatican, để người Việt coi tổ phụ của mình là ông Abraham nào đó chứ không phải các vua Hùng! Chúng ta cần vinh danh họ đã có công đồng hóa chúng ta?

Chúng ta có cần tôn thờ một bà mẹ mìn dụ dỗ bắt cóc chúng ta và dạy chúng ta chối bỏ cha mẹ ruột của chúng ta không?

Chữ "quốc ngữ" đó là một công cụ lợi hại làm đứt mạch văn hóa của chúng ta để chúng ta dễ bị đồng hóa hơn và lịch sử đã chứng minh điều đó. Hậu quả là chúng ta hiện đang sở hữu một nền văn hóa lai căng đông không ra đông, tây không ra tây! Dở dở ương ương, xìu xìu ển ển!

Chữ tây mà lại đem viết "thư pháp"! Thật rởm đời không chịu nổi. Chúng ta giống như những đứa trẻ bị dụ dỗ bắt cóc rồi tẩy não lâu ngày nên chả biết nguồn gốc của mình ở đâu ra cả. Đầu óc thì nghèo nàn chao đảo, mất phương hướng, mất tự tin, thấy nhà giàu hào nhoáng làm gì cũng bắt chước không tự sáng tạo ra được cái gì hay ho cả là nhờ một phần ở những mẹ mìn như de Rhodes đã ban cho ta cái chữ "quốc ngữ" đó!

Lịch sử thế giới cho thấy rằng đạo Chúa và thực dân đã tay trong tay đi chinh phục khắp thế giới. Truyền đạo hoặc bắt buộc theo đạo Chúa bằng bạo lực là những hình thức đồng hóa dân bản địa để giúp cho việc xâm lăng rồi bám trụ dễ dàng hơn, và họ đã rất thành công. Đạo Chúa là thiểu số ở Việt Nam, theo con số chính thức ở Việt Nam thì chưa tới 10%, nhưng nếu bạn thử hỏi khoảng 10 người có tư tưởng chống cộng tới mức độ điên cuồng không đội trời chung thì ít nhất phải có tới 9 người là người đạo Chúa. Đây là con số khiêm tốn để đề phòng sai sót chứ theo thử nghiệm của chính tôi 10/10 người chống cộng điên cuồng thì đều là người đạo Chúa, vì cả mấy trăm năm nay họ là công cụ của thực dân đế quốc phương tây chống lại dân tộc.

Tôi không nói tất cả những người theo đạo Chúa là chống tại dân tộc nhưng lịch sử đã cho thấy rõ không thể chối cãi rằng những người được Pháp - Mỹ tin dùng và những người đặt Pháp - Mỹ lên trên độc lập và thống nhất đất nước, trung thành tuyệt đối với Pháp - Mỹ là những người đạo Chúa. Tại sao lại có chuyện này? Tại vì họ đã được tẩy não rằng nhiệm vụ của họ là tuyệt đối nghe lời chủ chăn! Ai đã tẩy não, đồng hóa họ? Nếu không phải bắt đầu là những nhà truyền đạo như de Rhodes?

Sau đây là một đoạn trích trong sách Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, Tập I, trang 387. Đoạn này theo chú dẫn là trích từ sách của Pháp, nói rằng:

Cuối năm 1664, chúa Hiền (Phúc Tần) hỏi một tên lính theo đạo Thiên Chúa về thân phận, y đáp: 'Thưa ngài, tôi trước hết là thần dân và đầy tớ của ông vua, đức chúa của trời đất, thứ hai mới là của các hạ'. Một thanh niên theo một giáo sĩ bị bắt vào Huế, khi bị hỏi: 'Ai là cha?' đã đáp: 'là chúa, chúa sáng thế!'

Nếu chúng ta quyết định vinh danh một người có "công" đồng hóa người Việt để chống lại người Việt như Rhodes thì cũng nên xem xét vinh danh luôn những quan lại đô hộ khi xưa của Trung Quốc đã giúp chúng ta có được những âm Hán trong tiếng Việt nếu không thì làm sao chúng ta biết nói?

Tôi xa Việt Nam đã lâu và nếu nhớ không lầm thì đường Alexandre de Rhodes nằm không xa đường Nguyễn Du. Nếu đúng như vậy thì đây là một chuyện cười ra nước mắt. Vì Nguyễn Du là một đại văn hào dùng chữ nôm viết thơ và đã có công làm vẻ vang văn hóa Việt Nam trong khi de Rhodes theo tôi là một mẹ mìn đã tàn hại văn hóa Việt Nam bằng cách có lòng tốt của mẹ mìn dạy cho chúng ta chữ "quốc ngữ". Nguyễn Du là niềm vinh hạnh to lớn của Việt Nam trong khi de Rhodes là một nỗi nhục lớn. Hai người này có ảnh hưởng trái ngược 180 độ đối với văn hóa Việt Nam. Nước Việt Nam thường khoe khoang có đến hàng ngàn năm văn hiến nhưng chữ viết cũng không có mà phải "nhờ ơn" một cha đạo đến tận thế kỷ 17 viết phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin dạy cho thì mới có chữ mà viết?

Như vậy thì công của A. de Rhodes thật là lớn như là cha mẹ tái sinh của dân tộc Việt Nam nên nếu dựng tượng sơ sơ thật không xứng tầm vóc, phải cần có một quảng trường thật lớn vinh danh ông ta!

Nếu sự thật người Việt Nam là dở như vậy đến mấy ngàn năm cũng không nghĩ ra được chữ để viết thì chúng ta cũng không nên buồn về chuyện chúng ta vẫn còn thua kém người ta rất nhiều. Con người hơn nhau là ở đầu óc, đầu óc dân tộc chúng ta kém cỏi như thế mà được như bây giờ thì đã là may!

Dân ta không biết sử ta?
Quan còn không biết nói già tới dân?

Wednesday, August 6, 2008

Người Hàn chào đón Bush đến thăm Hàn

Người Hàn hâm mộ quá làm Bush sợ không thấy mặt mũi Bush đâu hết!

Saturday, August 2, 2008

Glenn Greenwald - Interview with Daniel Ellsberg

Transcript

Salon Radio with Glenn Greenwald -- Interview with Daniel Ellsberg


GG: Welcome to Salon Radio With Glenn Greenwald. …

My guest today is Daniel Ellsberg who was the key figure in the Pentagon Papers controversy in the early1970s and who was one of the key figures in government in the 1960s and early1970s and today is really one of the most incisive commentators on a whole variety of current political issues.

DE: It’s really a pleasure to be with you Glenn. I’ve been following your work at Salon and even before that for the best window into what’s happening constitutionally in this country.

GG: Thank you. I appreciate that. I think a lot of people especially younger Americans are familiar with what you did as a citizen to stop the Vietnam War but not familiar with a lot of the details. So could you summarize what your role in that controversy: can you just describe what your background in government was and how you came to be involved with and have access to some of these sensitive documents on the Vietnam War?

DE: I worked for the RAND Corporation as a consultant to the Defense Department on issues of the command and control of nuclear weapons and nuclear war plans. I moved from that into the government as a special assistant to the Assistant Secretary of Defense in 1964 working on the escalation of the war in Vietnam, the secret decisions to get us involved in a big way under President Johnson. Once that had happened I volunteered to go to Vietnam in the State Department, where I was eventually a special assistant to the Deputy Ambassador. I used my previous training as an infantry officer, I was a company commander in the Marine Corps in peacetime in the 1950s, to walk with troops in combat, and I saw the war up close.

I saw most provinces in Vietnam as part of evaluating pacification programs in the two years I was there, before I came back with hepatitis. I then worked at the RAND Corporation on a study for Secretary of Defense McNamara on Vietnam decision-making that came to be known as the Pentagon Papers after I released it to the newspapers and to the Senate a couple of years later.

GG: During the time when you were working at the Pentagon and you went to Vietnam in the 1960s, is it fair to say that you on the hawkish side of the political debate, that you were in favor of the war, that you thought it was a good idea, you had worked on escalating it?

DE: No, well, yes and no. [laughing] I was certainly a Cold Warrior. That was my profession, trying to defeat communist expansion as I understood it, not very well, at that time. I went to Vietnam having been there very quickly in1961 and perceived it as a losing proposition, very much, under the dictator we had installed, President Ngo Dinh Diem. We clearly had no prospect of defeating the Communist-led liberation front, which had the prestige in Vietnam of having defeated the French in the northern part of Vietnam. So I saw it as not the place to plant our cold war flag, if possible, but when the President did do that I thought it was my duty, responsibility, to get into the war to do the best I could to make something out of it, without much hope.

I think there were a few months when I was first there when I thought that our large-scale involvement should make it possible for us to achieve something there. Within months it was pretty clear that we were not going to achieve any kind of success of any kind, and people were being killed and we were losing Americans to no justifiable purpose or effect. And that was seen, I think, by most people who went to Vietnam. I can’t speak for them. Three million of them went. I think within months or a year – I was there two years – most people came to realize there was going to be no success and that the war should really be ended. The question really was, what to do about that?

When I came back from Vietnam my efforts for a couple of years, still within the system, now as a consultant again, were to work with Presidential candidates, both Republican and Democrat, trying to convince them that we ought to get out of Vietnam. I also worked with Congress people on that. To no effect.

And eventually, having worked with President Nixon and [his National Security Assistant] Henry Kissinger in the first months of their administration on Vietnam as a consultant, I learned from those contacts in the White House in 1969 that President Nixon was going to walk in the same footsteps as all of his predecessors, footsteps that were very well documented in the Pentagon Papers. I had full access to the Pentagon Papers as a researcher who was working for the Pentagon on learning “Lessons from Failure in Vietnam.” I was studying those at the RAND Corporation and read them as a record of four presidents’ lies, crimes, breaking treaties, deceiving Congress and the public into war in much the same way as we were deceived into the Iraq War. There’s a very close parallel there.

And I hoped when I learned that Nixon was going to continue the war and even expand it and was making secret threats, including nuclear threats, at that time, that Congress might better resist that or be skeptical of it if they understood the background. So I copied and gave the Senate [Foreign Relations Committee] the 7,000 top-secret pages of the study. The official name of which was “History of United States Decision-making on Vietnam, 1945-1968.” So it ended before Nixon came in, and unfortunately it didn’t prove the point that I wanted people to get, that President Nixon was pursuing the same kind of course and that the war would continue as it did. But at least it would show people that maybe they should be skeptical of what they were hearing from the President and exercise their own judgment: and maybe even take a risk of their careers in opposing it.

As far as I was concerned I was totally influenced by the example of some of the young Americans I met who were going to prison not just to protest the war but to refuse to participate in it, knowing that it was wrong. Well I felt the way that they did and I thought if they can do that--and I thought it was right for them to do that, to be willing to go to prison--then it should be right for me too. And I expected by giving these top-secret documents even to Congress, as I did, and later to the press that I would be prosecuted and go to prison for the rest of my life.

I had a wrong understanding of the law, which was shared by nearly everybody. We don’t actually have an Official Secrets Act—yet, although I think that might well lie in our future--which criminalizes any unauthorized disclosure of classified information. Almost nobody knows that we don’t have such a law, so [laughs] when they pass it I’m not sure they will notice. But in fact I was the first person to ever be prosecuted for leaking unauthorized documents. Did you know that, by the way?

GG: I didn’t. I knew that there were efforts in the 1990s to have an Official Secrets Act passed like the one they had in Britain where it is criminal to leak any classified information and President Clinton was opposed to that bill, to his credit. But I didn’t know that you were the first one prosecuted and I actually want to ask you about that.

You had said the Pentagon Papers ended in terms of the scope in 1968 which was three, almost four years earlier than the time that you were leaking them. What was the very grave concern in the White House on the part of the Nixon administration about what the impact of these papers would be? Why were they so affected by what it was that you were doing?

DE: Nixon and Kissinger immediately hated the precedent of anybody revealing secrets like that because they were rightly afraid that people would leak their own secrets. So they were anxious to have me prosecuted: even though no one ever had been, which I’m sure they didn’t realize.

GG: You mean prosecuted as a warning or a deterrent to others who might want to expose their wrong-doing?

DE: That was the reason for their prosecution. In terms of getting the actual material out, as the tapes from the Oval Office have shown, they were actually happy about that.

That mainly showed that the Democrats had gotten us in, the Democrats had done the lies. And although, oddly, Rumsfeld, who was in the White House then, and Haldeman were a little uneasy about the fact that it did reveal that presidents do lie, Nixon was actually not worried about that. He bet on the likelihood that the public would still credit the statements of the incumbent president no matter how much demonstration there was of past lying. And basically he was right. I didn’t succeed in convincing people that President Nixon was doing the same, until later.

But, though the public and even I didn’t know it at the time, Nixon did understandably become totally worried that I had documents on him beyond the Pentagon Papers. And I did have some. I didn’t have, unfortunately, as much as he feared. But to stop me from putting out documents on his nuclear threats and his plans to escalate he took a number of actions that at that time were clearly illegal.

I was overheard on warrant-less wiretaps. Nixon started a group nicknamed the White House Plumbers, supposedly to stop leaks. But the leaks they were afraid of were leaks that I might yet make, hadn’t done yet. To stop me from doing that, this group burglarized the office of my former psychoanalyst looking for information that I wouldn’t want known, that could blackmail me into being silent about further revelations.

I was already on trial at this point facing twelve felony counts, fifteen with my co-defendant Anthony Russo, including a conspiracy count; I had twelve counts, which added up to a possible sentence of 115 years. In the midst of that trial he sent people into the doctor’s office; later he sent some of these same people, with a bunch of Cuban, former CIA employees, assets from the Bay of Pigs, in order to “incapacitate me totally,” to kill me-- according to the prosecutor—or, I think, just incapacitate me, to keep me from talking.

These crimes had to be kept secret, so he in effect bribed a number of them to commit perjury about what they knew about earlier crimes in front of the grand jury [after they had been caught in the Watergate offices a few weeks after the attempted assault on me]. That constituted further crimes that had to be kept secret, obstructions of justice, and he was digging himself in further and further, safely he thought, unless somebody talked. And [John] Dean did talk and that ultimately brought the house of cards down. And it did lead to the ending of my trial, but more importantly it did face him with impeachment and prosecution and got him out of office, and actually had an effect in shortening the war.

GG: So much of what you just said is so fascinating as a historical matter and then also so relevant in so many self-evident ways to our current political crises. The eavesdropping is just one aspect and the deceit about how we got into the Vietnam War and stayed in it is another. But one of the things I’ve always found most interesting about your story is that you were really someone who was quite embedded in the political establishment. You had extraordinary classified access and top-secret clearance. You had been at high levels of the government for the entire decade. You had graduated from Harvard. You were at the RAND Corporation, the sort of peak of the military-industrial complex in some way.

And for you to take the risk that you did – and as you said, you expected to end up in prison for life – is a really extraordinary decision that we’ve seen very little of over the last years. We’ve seen a little bit of it. But really we’ve seen very little of people risking their own personal interests to expose severe government wrongdoing. What was the thought process that really led you to take that risk? You said that you were inspired by some of the young people, but the risk that you were taking was of an entirely different magnitude. What pushed you to do that?

DE: The risks they were taking were, actually… exposed them to a few years of prison, which [laughs] is long enough to deter most people. But they had very, very little incentive in the sense of any sense that by sitting in the doorway of an induction center or by refusing to send back their change of address to a draft- board--which was enough to send you to prison if it was deliberate-- that it would have any effect on the war. Now it did have a big effect on me. I felt the power of that on my own life, the example of somebody willing to take that risk. I wouldn’t have thought of doing something that would put me in prison forever without that example.

Why the Pentagon Papers, in turn, have not encouraged people to do [something similar], with its demonstration that it did in the end have some effect, through Nixon’s actions against me and the vulnerabilities that that exposed him to, why more people haven’t done that, [I don’t really know]. I’ve been asking people for several years in the government through every channel I can--which is inadequate; they don’t let me get in front of an audience in the State Department and Defense Department any more, I wish they did--but when I can, as in the Harper’s article I wrote a couple years ago, which is on my website, ellsberg.net--I’ve been saying to such people:

“Don’t do what I did.

“Don’t wait until the new war has started in Iran, or Iraq in the past. Don’t wait till the bombs are falling and more thousands of people have died, before you do what I wish I had done in 1964 or 1965, years before I did do it: go to Congress, go to the press—both, by the way, not just Congress or they won’t act, as I found—go with documents and tell the truth. And do it at risk to your own clearances, your careers. These are not light risks. But there’s a war’s worth of lives at stake.”

I frankly don’t have an answer as to why more people, or actually any others, have not done that. You’re asking what my own thought process was on that. It was really quite simple at the time. I had been willing as a Marine and I actually did in Vietnam as a civilian take the kind of risks of my life that hundreds of thousands of people took in Vietnam and hundreds of thousands have taken now in Iraq, risks to my body, risks to my life. That was regarded as very normal in the service of your country, not pathological, just ordinary patriotism.

Why people who have risked their lives and their bodies – in many case the same people, in the government or Congress– why they are not willing to take any risk at all, as far as I can see, of their clearances, their jobs, their office, I don’t understand. It’s easy to see why a lot don’t do it, the costs are great. But why nobody?

I think we should demand more of people in terms of their willingness and their obligation to carry out their oath of office. You know, I took that oath as a Marine Corps officer and as a Defense Department official and as a State Department official, over and over, and it’s the same oath that every officer takes and every member of Congress. And that’s not an oath to the President. We don’t have a Fuehrer, that we swear a blood oath to. And it’s not an oath to secrecy. The oath of office is to support and defend the Constitution of the United States.

Now I would say that every member of Congress who recently voted for this FISA Amendment Act--I would say very frankly--violated that oath, just as innumerable members of the Administration have violated that oath of office. And…they should stop doing that.

GG: Well I certainly as you all know, agree with that assessment but what I think is particularly interesting in your case is that I think there’s this sense that unfortunately has now arisen…you talked earlier how one of the things that Nixon or at least Haldeman and Kissinger feared was that the release of the Pentagon Papers would undermine this sense of Presidential infallibility, that was the real harm of it, but that if…

DE: Nixon disagreed. Nixon knew that that sense of Presidential infallibility is so strong, people desire to believe the President or at least not get into a public confrontation with him. Nixon thought even the Pentagon Papers wouldn’t affect it, and he was basically right.

GG: Right, although certainly the Watergate abuses [DE: right]. and the things the Church Committee uncovered eventually led to things like the FISA bill which was based on the premise that we don’t trust the President to eavesdrop without judicial supervision because it had been abused. And yet what we just saw again is a complete abandonment of that realization by once again vesting with the President the power to spy on Americans and our conversations without warrants, to cover up the crimes that have been committed over the past five years when we know that the President has been spying on our communications without warrants. We don’t bother to find out how he spied or to what end that power was used and don’t bother hold him accountable in a court of law.

As somebody who was actually subjected to surveillance of that kind, whose psychiatrist’s office was broken into by the federal government in order to obtain damaging information on you and keep you in check or blackmail you or otherwise render you incapable of challenging the government and our political leaders in some way-- exactly the kind of abuses that FISÅ was intended to prevent and that Congress just once again enabled--how did you react, kind of, as a citizen? I know you said that you felt they violated their oath to the Constitution, anyone in Congress who voted for that. Could you elaborate on that a little as well?

DE: Well, I couldn’t help noticing as far back as 2001, when the so-called PATRIOT Act was passed, that acts that had been taken against me which were crimes had suddenly been legalized. The break-in to my psychoanalyst’s office, even without a warrant, is as I understand it, covered by the “sneak and peak” provisions of the PATRIOT Act. The use of the CIA against me in a psychological profile, which was illegal then, against their charter, was now legalized. The CIA has now been “freed” to cooperate directly with the FBI and with law enforcement to be part of a kind of secret police, a political police. The overhearing by warrant-less wiretapping is of course something that they had been doing all this time [and is now legalized by the FISA Amendment Act]. So acts that confronted Nixon with impeachment and were clearly repudiated when they were discovered back in the 1970s and led to the ending of my trial but more importantly later consequences for the president, those acts in the wake of 9/11 have been legalized.

There’s a contrast here. If the President had done these various things for a day or a week or a month in the immediate aftermath of 9/11, I think very few people would have bothered or felt like criticizing that in an emergency, of necessity, when they didn’t know what was happening. But to keep these things going secretly for six or seven years is a different matter.

And worst of all, as you point out, Congress when actually called on moved to legalize these things now. I’m not a lawyer--I’m a defendant [laughs]--but it’s a question in my mind whether you can simply amend the Çonstitution by majority votes like this, whether they can really make these things legal against the Fourth Amendment and other amendments of the Constitution. But at least Congress did what they could with the amendments to the FISA act to legalize these things when the President called on them to do it.

So here’s the difference in the situation. As I say, I thought it was ominous even in 2001. I think it’s worse than ominous now. There has been a kind of fait accompli. I call it a coup; and with the complicity of Congress. Namely: there was a theory that President Nixon espoused, when he told David Frost after he was out of office: “When the president does it, it’s not illegal.” That was a philosophy that he acted on; but it was rejected then, as clearly incompatible with our form of government, with our Constitution, with democracy, with freedom as we understood it and practiced it.

This president has done the same acts, maybe on a larger scale but pretty much the same (and for that matter even Johnson had done it). He’s done it with a clear-cut philosophy that Nixon shared, “When the President does it, it’s not illegal.” As you put it there’s a two-tier system here, “laws that apply to the rest of us don’t apply to the President, he is beyond the law.” And Congress has with this vote essentially ratified that and confirmed it. So it seems to me it’s not a straw in the wind anymore; the government has changed, as I see it, with the complicity of Congress. The Supreme Court isn’t fully aboard yet on some five-four decisions, but one more Supreme Court Justice under McCain would switch that.

Let me refer back to Benjamin Franklin’s comment about our government when he was coming out of our Constitutional Convention. And he was coming out and a woman asked him—because the proceedings having been secret up until then-- “Well, Doctor, what have we got, a republic or a monarchy?” And he said, “A republic, if you can keep it.”

Well, as of now, as of July 2008, I would say we haven’t kept it. We don’t have a republic in the sense of the constitutionally-limited kinds of powers that the Constitution required. When people go to the polls in November…and especially in light of the fact that even Barack Obama--who I support, and I think it’s essential, necessary that he be elected--but with his support of this FISA amendment he’s indicated very clearly that it is not his intention to roll back this usurpation of presidential powers, he’s accepting the powers that Congress and this president are going to bequeath him-- so I think [in November] the people will be choosing between two…what?… not presidents in the sense of the Constitution…but two kings, two people with dictatorial powers.

GG: Two emperors.

DE: Am I going overboard when I say that? What is your opinion?

GG: I think it always seems that hard core indictments of one’s own time and one’s own political system are exaggerated because people only see the extremism of their time retrospectively. I think it strikes people as hyperbole because they just think we don’t have a king, we don’t have an emperor, just instinctively believe that. But if you just look at the very definition of what an empire is, of what a monarchy is, and the sort of defining attributes of what those systems of government are, certainly we’re a lot closer to that in terms of how we now function practice than we are to the constitutional republic that we began as.

DE: The republic has been threatened by these actions and by the complicity of Congress over these seven years, but I think a turning point, a tipping point, has been reached here. You know, “republic” isn’t a definitely defined thing. There was the Union of Soviet Socialist “Republics,” there was the German Democratic Republic, the East German satellite dominated by the Stasi, the secret police. Well, I’d say that the National Security Agency has just been set free of legal restraints to do a kind of surveillance that the Stasi couldn’t technically dream of at that time.

And that means that the ability of this government to blackmail anybody--the way, for example, that Nixon precisely hoped to blackmail me, by illegally gaining information about my private life, that’s exactly what he had in mind – they could do that against every Congressperson, every journalist and source, every political activist. [DE: I question whether you can long preserve a real democracy with that kind of capability, that unlimited knowledge of private affairs, in the hands of the government.]

GG: And of course we don’t know the extent to which they’ve been doing that, if they’ve done it at all because it has been kept behind a wall of secrecy. One of the reasons why I think you’re such a relevant person on these issues and why I was so anxious to talk to you including as the debut guest for what we’re doing is because one of the things that happened in the 1950s and the 1960s and into the early1970s was there was this accumulation of executive power where we believed in the presidency as this infallible office and there was very little oversight. And it was only this political turmoil of Nixon’s impending impeachment and high political officials going to prison and true oversight and investigation by the Church Committee and other Congressional investigations and real political dissatisfaction did we at least reverse at least a little bit of that and start to impose some restraints on presidential power and restraints on what the president can do.

One of the reasons that I’ve been so disturbed and concerned about this bipartisan attitude among Obama supporters and certainly among all the McCain supporters is that whoever the next President is you should just let all this go or write it off as just a good faith error or just something that we don’t want to spend time investigating is because if you do that you lose what historically has been the only real mechanism for reversing some of these really bad trends and for creating some remedies.

If we just decide that when Barack Obama is inaugurated or John McCain is that we are just going to forget about everything that has happened these last seven years which is what a lot of people are suggesting, how will it even be remotely possible to reverse some of those trends over the last seven years? Won’t we essentially then just be buying into this form of government that you call a kingdom or a monarchy or an empire more or less irrevocably? What mechanisms exist for reversing some of it if we just decide that we’re going to overlook it all and not apply to the rule of law and just sort of let it go?

DE: Unfortunately, as of right now, the prospects for changing that--for upholding the rule of law--in terms of what has been happening and the powers that the president will continue to have in the next administration, are not too promising. It’s not that I think, I have no reason to believe that Obama is against the Constitution and against the rule of law, in the sense, by the way, that David Addington--the chief of staff for Vice President Cheney, who has been the chief architect of many of these policies--and Cheney and Bush themselves, are, I think, enemies of the Constitution, in the sense that the oath of office refers to when one swears to “uphold the Constitution of the United States against all enemies, foreign and domestic.”

I think that in that sense Cheney and Bush have been and are domestic enemies of our actual Constitution, as written. And I don’t say that rhetorically. I’m not saying that they’re traitors or disloyal in their feelings toward this country, or that they don’t want the best for this country. I think they want the best for this country, but what they think is best is something other than our Constitution of the last two hundred years. It is something like an elected dictatorship.

They have a right to believe that. But they don’t have a right to act on that as they have [after taking that oath]. The question here is, as you’re raised, how can we change that if we don’t hold them to account somehow? Well, I think we have to be very creative here in finding ways to repudiate that point of view and roll it back and restore our Constitution. Perhaps some way other than impeachment: which is the straightforward way, but which by every indication the Democrats are simply determined not to give us and are not going to do it now this year, unfortunately.

And Obama has indicated as of now… with his advisor Cass Sunstein, who I think you demolished when you interviewed him the other day--I would have been dizzied, listening to him if I was in your place, and as an advisor to Obama…there were just wild descriptions of what democracy requires--but with that kind of advice, we have to assume that Obama, who also wants to bring people together and to reach across the aisle and to look towards the future, none of those indicate he will be interested in pursuing these issues.

It does give us a strong incentive to try in the remaining months to get Congress to at least assert in some way or other the kind of investigation that Conyers has not yet made in the Judiciary Committee, and that none of the committees have, that define these things as illegal and unconstitutional and to educate people as to what the Constitution requires.

GG: Just on that point, I certainly think that if you were to sit down with Obama and in an academic setting or conversational way and ask him about his views on many of these constitutional issues, that he would say many of the right things and believe them. I don’t think that he’s an advocate of or a believer in this monarchical Article II perversion that has governed our country for the last seven years. The problem though is that if you look at some of those investigations – the Church Committee and the Watergate Committee and things of that sort, what you had was a very aggressive action on the part of the Congress, at least ultimately, and Democrats and Republicans alike because it was really an investigation of things Nixon and the White House had done. What you have here by contrast and I think critical contrast is something that the Bush administration did but that it purposely involved many of the top Democrats in Congress by briefing them, by getting their tacit or explicit approval and so the appetite for really uncovering what happened I think is greatly diminished if not eliminated completely by the fact that the people who are running the Congress on behalf of the Democrats feel to some extent or another feel implicated in some of those actions.

DE: I had come to that suspicion earlier. I actually heard John Conyers, head of the Judiciary Committee, say in a meeting that he was open to the idea and that he would propose to Speaker Nancy Pelosi a Select Committee like the Ervin Committee which looked into the Watergate abuses or the Church Committee that looked into the abuses of the intelligence community in the 1970s – both of them, by the way, prior to impeachment investigations, they were just investigations of crimes by whoever, not necessarily the president. Of course they enlightened us very much and they did lead to legislation that was useful in their time.

There should have been and there should now be a Select Committee – the point of a Select Committee being that it crosses jurisdictional lines, it doesn’t just keep things in the Intelligence Committees: which, I would say, deserve investigations themselves, possibly by a prosecutor. Hard to get, but that’s what you need. It’s clear now that these Committees were made aware of clear-cut blatant crimes that were proposed and were ongoing. I’m talking about torture, rendition and the illegal surveillance. The leaders were made aware of that. They not only didn’t expose it, they approved it. They didn’t even tell, as the law required, their colleagues on the committees.

What other crimes have we not yet learned that they have approved, that are going on?

So they are totally complicit. So at least the Judiciary Committee--which I understand was not brought in on the negotiations about this FISA deal though it clearly had been in their purview--they should be brought in across committee lines. They should have a special staff, with better lawyers then the committees now have by the way – I would love to see you in on such an investigation, like a Watergate investigation--with good budgeting and enough time to look into this.

We can’t count on Obama--not because he’s complicit himself, he wasn’t, and like you he’s a constitutional lawyer - but what President has ever eschewed and cut back powers that were bequeathed to him? It seems engraved on the desk in the Oval Office, “You must leave this office at least as powerful as when you entered it.” They all seem to sign on to that, though it’s not, in fact, their oath of office.

GG: Right.

DE: So we just can’t count on any president to do that by himself, or we can’t count on the present Democratic leadership in Congress. We do need a Democratic Congress rather than Republican because the Republicans are even worse, as in the case of presidential candidates. But that’s not enough. We have to change the attitude of the Democratic leaders in Congress, to bring them more in line with their oath of office and with the Progressive Caucus and away from these Blue Dog Lieberman Democrats that have dominated what they’re doing. Maybe you want to comment on that. You have raised possibilities for political action that may actually change priorities in Congress and I think that’s of extreme urgency.

GG: We’re a little over time and this is an ongoing segment now, three times a week, I will absolutely have you back on again very shortly. And we can talk about, having kind of explored the road how we got here, we can talk more, focus on more how if at all it’s possible to start reversing it.

DE: Yeah, we haven’t talked about how to fix it, that’s important. But just to define the situation we’re in, I’d like to sum up what I’ve been saying, by saying, unhappily, that when I pledge allegiance as of now, after that recent [FISA Amendments] vote, I will be pledging it “to the flag of the United States of America and to the republic for which it stood.”

And that’s a situation I want to change.

GG: And, hopefully, “can stand again.” “Can stand again,” I think, is the aspiration, to be able to add on to that phrase.

DE: We’ve got to get it back.

GG: Yeah.

DE: As Langston Hughes said, O, let America be America again--/ The land that never has been yet--/ And yet must be—”…

He said…I just looked that up again, actually, because it stuck in my mind.

“ O yes,/ I say it plain,/ America never was America to me,” (as a black man) “And yet I swear this oath--/America will be!”

GG: Well it’s a very eloquent and inspiring note to end on.

Friday, August 1, 2008

Báo Chí - Thông Tấn Phương Tây Chôn Vùi NAM

Hội nghị ngoại trưởng các nước thuộc Phong Trào Không Liên Kết gọi tắt là NAM (Non-Aligned Movement) đã âm thầm khai mạc và cũng âm thầm bế mạc luôn! Vì sao? Vì truyền thông của thế giới này là do phương tây nắm. Một chuyện được cho là lớn hay nhỏ không phải là do mức độ giá trị thật sự của nó mà là do truyền thông phương tây quyết định có nên quảng cáo cho nó hay không.

Cuộc họp của tổ chức gồm 118 nước hay 60% số thành viên của LHQ này đã bị ém nhẹm vì sự hiện hữu và hoạt động của nó đi ngược lại với quyền lợi của phương tây và vì phương tây không thể bôi nhọ chủ trương của nó!

Đồng loạt các hãng tin, thông tấn, đài truyền hình lớn nhất của Anh và Mỹ hoàn toàn không đả động tới kết quả và tuyên bố chung của lần họp này, các tin về việc này chỉ có các nguồn ở các nước khu vực đưa, vì sao? Vì nó hoàn toàn bất lợi cho cái thế ngồi trên đầu các nước đang phát triển của phương tây. Tôn chỉ từ đầu của NAM là một bất lợi lớn cho sự tự do hoành hành bá đạo của các nước giàu, và lần này tuyên bố chung của họ còn có khoản khẳng định ủng hộ quyền được phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình của Iran. Tuyên bố đó còn khẳng định rằng chỉ có Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế thuộc LHQ (IAEA) là cơ quan hợp pháp duy nhất có quyền tìm hiểu hoạt động của các thành viên tổ chức này.

Hai lời tuyên bố này là hai cái bợp tai nảy lửa vào những luận điệu tuyên truyền bóp méo của tây phương nói rằng "cộng đồng quốc tế lo ngại về chương trình hạt nhân của Iran".

Cái "cộng đồng quốc tế" mà các phương tiện truyền thông phương tây nói đến bao gồm ba nước dính liền với nhau ở phần bụng trở xuống và có ba cái đầu sáu cái tay là Mỹ-Anh-Israel, ba nước này là nguyên nhân - đã tạo ra và dính dáng tới không biết là bao nhiêu cuộc chiến tranh khu vực và thế giới. Cùng với Pháp, Đức là những nước thực dân đế quốc cũ muốn giữ nguyên trật tự thế giới hiện nay để họ cũng có thể tiếp tục hưởng lợi ăn trên ngồi chốc. Họ đã gãi lưng Nga và Trung Quốc để có một sự đồng thuận được gọi là "cộng đồng quốc tế" hòng ép buộc Iran từ bỏ quyền được phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình của nước này.

118 nước thuộc NAM ủng hộ Iran là đông hơn rất nhiều so với cái "cộng đồng quốc tế" chuyên môn bắt nạt quốc tế kia nhưng vì họ không nắm truyền thông thế giới nên quyết định của họ bị phương tây phớt lờ và bị cho rơi vào hư không. Em "dâng chủ" nào dám nói truyền thông phương tây không có định hướng chung dẫn dắt dư luận theo hướng có lợi cho họ? Nếu không làm như vậy thì làm sao họ nắm đầu thế giới này được?

Iran không hề vi phạm cam kết quốc tế về Không Phổ Biến Vũ Khí Hạt Nhân (NPT) mà họ cùng 189 nước khác trong đó có Mỹ đã ký. Hiệp ước này cho phép thành viên nghiên cứu và dùng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình và do đó những gì Iran làm hiện nay là hoàn toàn nằm trong khuôn khổ của hiệp ước đó.

Ngược lại, Mỹ, nước la làng chống đối Iran mạnh mẽ nhất, thì đang vi phạm hiệp ước này vì họ không có ý định hợp tác cùng với các nước có vũ khí hạt nhân khác tiến hành giải trừ loại vũ khí này theo phần thứ hai của hiệp ước. Hơn thế nữa, họ còn có ý định canh tân toàn bộ kho vũ khí khoảng 8000 đầu đạn hạt nhân này để bảo đảm sự sẵn sàng của nó và chế tạo bom hạt nhân cỡ nhỏ mới.

Nhưng những sự thật này hoàn toàn không thành vấn đề trong cái thế giới miệng anh nào to thì anh đó chiếm ưu thế này.

Sự ngăn cản bất hợp pháp và sống sượng này của Mỹ đối với Iran cũng giống như chuyện những quân xâm lược hay bạo chúa ngày xưa cấm dân không được rèn đồ đồng, đồ sắt, tịch thu hết dao, rựa, cuốc, thuổng vì sợ dân rèn gươm giáo chống lại họ.

Vì mối lo ngại đó mà dân bị đói khổ cũng giống như vì mối lo ngại của Mỹ mà Iran phảì mãi mãi là một nước không được nghiên cứu hạt nhân, họ bị bắt buộc phải mua nhiên liệu hạt nhân trong khi họ hoàn toàn có khả năng tự sản suất ra nó!

Nói tóm lại tốt nhất đối với họ thế giới này anh nào làm cha thì cứ tiếp tục làm cha, anh nào làm con thì lại tiếp tục làm con. Bố muốn chế cái gì thì bố chế, các con không được bắt chiếc. Bố vi phạm luật thì được còn con cho dù theo đúng luật nhưng nếu bố không thích, con cũng không được làm vì bố, với tư cách là chúa tể toàn cầu do bố tự phong, chính là luật lệ tối thượng.

Tốt nhất các nước thế giới thứ ba nên tiếp tục bị chìm trong chiến tranh, bạo loạn, chém giết, chia rẽ, bệnh hoạn, đói kém, lệ thuộc,... thì càng tốt. Nước đục thì mới dễ thả câu, hay đục nước thì mới béo cò. Cái gì chúng bay cũng làm được hết thì ông làm sao còn chỗ đứng?

Trích dẫn Ngoại Trưởng Mottaki của Iran:

"Hội nghị ngoại trưởng Phong Trào Không Liên Kết ở Tehran đã gạt sang một bên ấn tượng sai lạc về những hoạt động hạt nhân hòa binh của Iran."

"Ủng hộ của NAM đối với chương trình hạt nhân hòa bình của Iran là một việc lớn lao và có ý nghĩa."

"Có một nhóm muốn giới thiệu họ như là đại diện của cả thế giới."

"Họ tin rằng những lời nói của họ là lời của tất cả các quốc gia trên thế giới trong khi họ biết rằng đó không phải là một chính sách có lý hoặc có thể chấp nhận được."

"Ủng hộ của NAM đối với chương trình hạt nhân hòa bình của Iran đã chấm dứt những cáo buộc đang có cho rằng cộng đồng thế giới chống lại những hoạt động hạt nhân hòa bình của Iran."

"Ủng hộ của các thành viên NAM cũng gửi một tín hiệu cho những bên đang tiến hành thương thảo về hạt nhân với Iran."

"Nó nhắc nhở họ phải dùng một cách tiếp cận có lý lẽ, tích cực và thực tế đối với Iran."

Lời của Tổng Thống Ahmadinejad, Iran trả lời phỏng vấn NBC:

"Chúng tôi không làm việc hướng tới việc chế tạo một quả bom hạt nhân. Chúng tôi không tin vào một quả bom hạt nhân. Chúng tôi cũng nghĩ rằng nó không ảnh hưởng tới quan hệ chính trị. Do Thái sở hữu hàng trăm đầu đạn hạt nhân. Kho vũ khí hạt nhân này có giúp họ thắng trong cuộc chiến bên trong Lebanon vừa qua không? Không. Vũ khí hạt nhân có giúp Liên Xô khỏi bị sụp đổ và tan rã không? Bom hạt nhân có giúp Mỹ thắng trong cuộc chiến bên trong Iraq hay Afghanistan không?"

"Bom hạt nhân thuộc về thế kỷ 20, chúng ta đang sống trong một thế kỷ mới. Chúng tôi nghĩ khi đề cập tới vấn đề hạt nhân, chúng ta phải dùng một thước đo hay hành động thích hợp và đúng mức. Không thể đem năng lượng hạt nhân đánh đồng với bom hạt nhân. Điều này có hại cho xã hội loài người."