“The Political Economy of Human Rights – Volume I”
By Noam Chomsky and Edward S. Herman
Black Rose Book, Montréal, 1979 – 5.2.3 The Hue Massacre of 1968 (Excerpts)
Lời khẳng định thiết yếu về cuộc thảm sát ở Huế, khi chúng tôi nói về “cuộc tắm máu huyền thoại”, chúng tôi không hàm ý là không có sự giết chóc nào đã xẩy ra. Sự thật nó đã xẩy ra trên một quy mô đáng kể. Nhưng đối với chúng tôi những bằng chứng có tính cách thuyết phục thì thấy rằng hình như cốt lõi của sự thật đã bị méo mó, bị mô tả một cách sai lệch, bị thổi phồng, bị tô vẽ với những điều bịa đặt nhằm mục đích tuyên truyền. Nói về những sự kiện, chúng tôi không có ý đưa ra một bản báo cáo miêu tả cuối cùng nào nhưng chỉ so sánh những bằng chứng có được với những lời giải thích của chính phủ và phương tiện thông tin rằng trong suốt một tháng chiếm đóng Huế trong cuộc tổng tấn công mùa Xuân năm 1968, “NLF” Mặt Trận Giải Phóng miền Nam (MTGPMN) và quân bắc Việt đã có chủ trương tập trung và giết hại hàng ngàn người dân theo một kế hoạch đã định trước và một "sổ đen” "blacklist" những người làm việc cho chính phủ hoặc đại diện cho “kẻ thù giai cấp” “class enemies”. Những tài liệu căn bản bổ xung cho câu chuyện này gồm một bản báo cáo do chính phủ Saigon đưa ra và tháng 4/1968, một tài liệu lấy được và đã phổ biến trong công chúng của phái đoàn Hoa Kỳ vào tháng 11/1969, và một bài phân tách dài xuất bản năm 1970 của một nhân viên Phòng Thông tin “USIS” Douglas Pike. Cả hai bản báo cáo của Saigon và của Pike đã gây nên một sự nghi ngờ về cơ bản của nguồn tin, về giọng điệu và vai trò của chúng trong một chiến dịch tuyên truyền mở rộng nhằm làm giảm đi ảnh hưởng của vụ thảm sát Mỹ Lai. Nhưng quan trọng hơn nữa là những tài liệu này đã không có sự điều tra hay sự nghiên cứu tỉ mỉ.
Như trong trường hợp về cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đã đề cập ở trên thì trong trường hợp này sự ước lượng về những nạn nhân của thảm sát của MTGPMN và VNDCCH tại Huế đã tăng vọt lên một cách đáng kể để đáp ứng lại với những nhu cầu chính trị bất ngờ đột xuất trong nước. Vào mùa thu năm 1969, đã xẩy ra ngẫu nhiên cùng thời gian với những nỗ lực của chính quyền Nic-xon nhằm làm cân bằng những ảnh hưởng của làn sóng những nỗ lực hoạt động hòa bình vào tháng 10 và tháng 11, và làm giảm đi sự tai tiếng của vụ thảm sát Mỹ Lai vào tháng 11/1969.
Ngay sau Tết Mậu Thân, Trưởng ty Cảnh sát Huế Đoàn Công Lập đã ước lượng con số nạn nhân bị thảm sát do “NLF” MTGPMN và VNDCCH gây ra là khoảng 200 người và những mồ chôn tập thể những quan chức địa phương và những thường dân khác là khoảng 300 người. Trong một bản báo cáo đưa ra cuối tháng 4/1968 do lực lượng tuyên truyền của chính phủ Saigon khẳng định rằng khoảng 1000 người đã bị Việt Cộng giết tại Huế và khoảng gần một nửa trong số nạn nhân đã bị chôn sống.Vì câu chuyện không được để ý đến, cho nên tuần (lễ) sau đó, đại sứ quán Hoa Kỳ đã đưa ra cùng một bản báo cáo và lúc ấy nó đã trở thành tin tức hàng đầu trên những tờ báo Mỹ. Câu chuyện đã không được chất vấn mặc dầu không có nhà báo phương Tây nào đã được dẫn đến những mồ chôn tập thể khi các hố chôn đó được khai quật cả. Ngược lại một nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud đã nhiều lần bị từ chối yêu cầu muốn đi xem một trong số địa điểm nơi mà ông tỉnh trưởng tuyên bố có 300 cán bộ chính phủ đã bị Việt cộng giết. Và rồi cuối cùng nhiếp ảnh gia này đã được máy bay đưa đến địa điểm ấy, nhưng viên phi công đã từ chối không chịu hạ cánh với lý do nơi đó không an toàn để hạ cánh.
Người tổ chức AFSC tại Huế cũng không thể khẳng định bản báo cáo về những hố chôn tập thể mặc dầu họ đã báo cáo có nhiều thường dân đã bị bắn và bị giết suốt cuộc tái chiếm thành phố.
Len Acklan, một nhân viên IV S tại Huế năm 1967 đã trở lại Huế vào tháng 4/1968 để điều tra, đã được nhân viên Việt Nam và Mỹ thông báo rằng khoảng 700 người đã bị VC giết. những cuộc đều tra rất chi tiết của ông đã bổ sung cho sự ước lượng này và cũng chỉ ra rằng những cuộc giết người chủ yếu gây ra do lực lượng của MTGPMN ở địa phương khi họ rút lui trong suốt chặng đường cuối cùng của cuộc chiến đẫm máu kéo dài một tháng. Richard West, một người có mặt ở Huế ngay sau cuộc chiến đã ước tính “khoảng vài trăm người và một số ít người ngoại quốc” đã bị VC giết và đã suy đoán rằng những nạn nhân như kiểu nạn nhân vụ Mỹ Lai do lực lượng Mỹ và VN Cộng Hòa gây ra có thể đã bị chôn sống trong những hố tập thể.
Vào mùa thu 1969, một “tài liệu lấy được” đã được khám phá (tài liệu này đã nằm trong số hồ sơ chính thức trong vòng 19 tháng mà không được chú ý đến), trong đó kể địch “tự nhận” đã giết 2.748 người trong suốt chiến dịch ở Huế. Tài liệu này là nên tảng chính mà dựa trên đó câu chuyện về thảm sát ở Huế được xây dựng. vào lúc nó được tiết lộ cho báo giới thì tháng 11/1969, Douglas Pike đã đưa ra câu chuyện về vụ thảm sát theo yêu cầu của Đại sứ Ellsworth Bunker. Pike, một người vận động chuyên nghiệp của giới thông tin đại chúng, nhận ra rằng những phóng viên Mỹ rất thích “tài liệu” này, cho nên ông đã phát hành tài liệu này. Ông cũng biết không nhà báo nào hiểu được tiếng Việt nên những tài liệu này đã được dịch và xây dựng lại để phù hợp với những yêu cầu của một cuộc thảm sát. Ông cũng biết rằng không có nhà báo nào thắc mắc về tính xác thực của ông và tự lượng giá để tìm ra những bằng chứng. Vì rằng trong lúc này những tài liệu bị cố tình làm sai lạc về VN rất cần. Vụ Mỹ Lai đã bị đổ bể và những hoạt động vì hòa bình có tổ chức vào mùa thu năm 1969 đã gia tăng. Pike đã đứng (?) về vấn đề này.
Để những “hồ sơ lấy được” sang một bên, chi tiết có tính cách thuyết phục về cuộc thảm sát là việc tìm ra những hố chôn tập thể. Nhưng những bằng chứng này đã không đủ thuyết phục như những tài liệu đã được sắp xếp trên. Một sự khó khăn cơ bản đã xẩy ra từ sự việc rằng số đông thường dân bị giết chết trong cuộc chiếm lại thành phố Huế bởi đạn pháo kích của Mỹ và NamVN được bắn một cách bừa bãi. David Douglas Duncan, một nhà nhiếp ảnh chiến trường nói vềcuộc tái chiếm rằng đó là “một sự nỗ lực dốc hết sức để loại bỏ bất cứ một kẻ địch nào. Tâm trí tôi bấn loạn trước cuộc tàn sát.” Một nhà nhiếp ảnh khác, viết rằng hầu hết các nạn nhân “đã bị giết bởi bom đạn được bắn một cách kinh hoàng chưa từng thấy của Mỹ”. Robert Shaplen viết về lúc đó “Không có gì trong cuộc chiến ở Triều Tiên và Việt Nam khi nói về sự tàn phá, mà tôi thấy kinh hoàng bằng những điều tôi thấy được ở Huế năm ấy. Trong số 17.134 nhà thì 9.776 ngôi nhà đã hoàn toàn bị phá hủy và 3.169 ngôi nhà bị thiệt hại khá trầm trọng.
Sự ước tính đầu tiên của Nam Việt Nam về số thường dân bị giết trong cuộc chiến lúc giao chiến trong suốt cuộc tái chiếm thành phố là 3.776 người. Townsend Hoopes, Phó tham mưu trưởng không quân (Under-secretary of the Air Forces) vào lúc bấy giờ nói rằng trong nỗ lực tái chiếm thành phố, 80% dinh thự đã bị đổ nát và trong đống gạch vụn đó có khoảng 2000 thường dân bị chết. Con số thương vong do Hoopes và Saigon đưa ra đã vượt quá con số ước tính cao nhất về những nạn nhân của quân Bắc Việt và MTGPMN, bao gồm những viên chức chính quyền, điều này không phải là những sự bịa đặt tuyên truyền có thể chứng minh được. Theo Oberdofer, thủy quân lục chiến Mỹ đưa ra những tổn thất của CS khoảng 5000 người trong khi đó Hoopes nói rằngthành phố bị 1000 quân CS chiếm đóng, nhiều người trong số họ đã trốn thoát, điều này đưa ra giả thuyết là phần lớn những người chết là thường dân bom đạn Mỹ.
Một số thường dân bị chết vì cuộc tấn công của Mỹ đã được quân của Mặt Trận chôn tập thểcùng với những du kích bị thiệt mạng về phía của họ. (theo nguồn tin của quân Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) và một số lớn thường dân bị “quân đồng minh chôn sống” (mass graves by the “allies”) MTGPMN đã khẳng định đã chôn cất 2000 nạn nhân của cuộc chiếm đóng thành phố” đã được khám phá trong những mồ chôn tập thể.Oberdorfer nói rằng 2000 nạn nhân của những cuộc chiếm đóng thành phố” đã được khám phá trong những mồ chôn tập thể nhưng ông đãkhông đưa ra lý do để tin rằng đây là những nạn nhân của cuộc thảm sát của Bắc Việt và MTGPMN hơn là những người chết do bom Mỹ. Ông dường như đã tin hoàn toàn vào những lời khẳng định của bộ tuyên truyền – Fox Butterfiedd, trên tờ New York Times số ra tháng 4/1975 lại đặt 3000 thi thể trong hố chôn duy nhất! Samuel Adams đã từng là nhà phân tích của CIA, viết trên tạp chí Wall Street số ra 26/3/1975 rằng con số ước lượng về số người chết của Nam Việt Namvà Cộng sản như trùng hợp nhau”. Saigon nói đã đào lên được 2800 thi thể, một bản báo cáo của Công an Việt Cộng cũng đưa ra những con số khoảng 3000” Không có bản báo cáo của công an nào nói như thế được biết đến. Và đối với ông Adams, ông rõ ràng không nghĩ rằng có thể con số 2800 người đã được thay đổi theo yêu cầu của bản tài liệu dịch sai.
Một đặc điểm đáng lưu ý về những hố chôn tập thể là những nhà báo độc lập không hề được phép có mặt tại hiện trường và họ rất khó xác định chỗ chính xác nơi những hố chôn tập thể mặc dầu đã nhiều lần yêu cầu được đến xem. Một trong những tác giả đã nói chuyện với một binh sĩ thủy quân lục chiến có mặt tại buổi khai quật công khai đầu tiên cho rằng những phóng viên có mặt lúc đó là những người đáng tin cậy đuợc lựa chọn một cách cẩn thận và rằng những thi thể không được kiểm tra. Ông còn nhận xét rằng những dấu vết ở hiện trường chứng tỏ đã xử dụng xe ủi đất (cái này Việt Cộng không có). Có lẽ chỉ có những bác sĩ phương tây xem xét những mồ chôn – Alje Vennema, một bác sĩ người Canada, nhận thấy rằng con số nạn nhân trong hố chôn tập thể mà ông đã xem xét đã bị Mỹ và Saigon thổi phồng lên gấp 7 lần.
Con số 68 người đã được báo cáo là 477 người, hầu hết trong số họ đã bị thương và dường như là nạn nhân trong lúc giao chiến. Hầu hết các nạn nhân mặc đồ quân phục.
Rất ít người để ý đến giả thuyết rằng những nạn nhân ở Huế không phải do Bắc Việt hay bom đạn Mỹ mà do quân đội Saigon khi tái chiếm thành phố. Nhiều người thân Công đã lộ dạng trong suốt cuộc tổng tấn công, và đã hợp tác với chính quyền địa phương do những người cách mạng ở Huế hình thành, hoặc bầy tỏ sự ủng hộ của họ đối với MTGPMN. Khi quân giải phóng rút đi, nhiều cán bộ và những người ủng hộ quân giải phóng kẹt lại ở thế rất nguy hiểm và họ trở thành nạn nhân của những sự trả thù của Saigon. Bằng chứng đã đuợc đưa ra ánh sáng rằng sự giết để trả thù trên quy mô lớn đã xẩy ra ở Huế do lực lượng Saigon sau khi tái chiếm thành phố.
Trong một bài mô tả đầy sinh động, một nhà báo người Ý Oriana Fallaci, trích dẫn lời một linh mục Pháp ở Huế đã kết luận rằng: “Tất cả có khoảng 1100 người bị giết (sau ngày quân Saigon “giải phóng” thành phố)”. Hầu hết sinh viên, giáo viên đại học, tu sĩ, những nhà trí thức và tín đồ (religions people) ở Huế đã không bao giờ che đậy cảm tình của họ đối với quân giải phóng.
Trong bất cứ trường hợp nào, tình trạng rất lộn xộn về những sự kiện và bằng chứng cộng với những “chứng cứ” không thể tin được của Mỹ và Saigon, ít ra cũng có thể nói rằng “cuộc tắm máu” do quân giải phóng và quân Bắc Việt gây ra tại Huế đã được xây dựng trên những bằng chứng hời hợt. Và dường như rất có thể những bom đạn Mỹ “cứu” dân Việt Nam đã giết nhiều thường dân hơn là quân giải phóng và Bắc Việt đã làm. Cũng có thể sự thanh toán mang tính chính trị của chính quyền Saigon đã vượt quá bất cứ cuộc thảm sát nào của quân giải phóng và Bắc Việt ở Huế. Bằng chứng cho thấy rằng đa số cảnh sát, công chức và quân nhân ban đầu nằm trong danh sách “cải tạo” hơn là trừ khử, nhưng số người bị giết tăng lên vì áp lực quân sự về phía MTGPMN và Bắc Việt tăng lên. Có một điều đáng lưu ý, như trường hợp cải cách ruộng đất, lực lượng quân giải phóng của Mặt Trận khi rút lui đã bị cấp trên kiểm điểm một cách gay gắt vì đã đi quá giới hạn và làm tổn thương cách mạng. Cho đến nay chúng tôi không hề nghe bất cứ một lời tự phê bình nào của Mỹ và cán bộ cao cấp của Saigon về sự giết hại của họ ở Huế.
…. Chúng tôi đã đề cập một vài trong số những hoạt động trắng trợn hơn nữa của bộ máy tuyên truyền Mỹ và Saigon. Phải cần nhấn mạnh rằng ngay những bản báo cáo hằng ngày đã xây dựng nhiều tin tức về vấn đề Đông Dương lẽ ra nên được xem xét với nhiều hoài nghi hơn.
Một nhà báo Nhật bản Katsuichi Honda một lần điều tra một bản báo cáo hàng tuần của Bộ Tổng thông tin của quân đội Mỹ ở Saigon nhan đề: ”Những Hoạt Động Khủng Bố của Việt Cộng”. Nghiên cứu một vụ mà ông đã quan tâm nhất, ông khám phá ra rằng sự khủng bố không chỉ kinh hoàng và dai dẳng xẩy ra thường xuyên, nó thật sự đã bị che đậy bằng hành động “kiểm soát tin tức” . Và xem ra những người bị giết không phải là nạn nhân của MTGPMN.
Dường như có vô số “sự việc kinh hoàng” đã được che đậy một cách bí mật sau sân khấu của cuộc chiến Việt Nam đang gia tăng. Ông khám phá ra rằng vụ ám sát 5 sinh viên Phật tử tình nguyện trước đây được công bố chính thức là nạn nhân của vụ khủng bố của Việt Cộng rõ ràng làdo quân chính phủ gây ra. Trong một số trường hợp khác “những lính say rượu” cãi lộn nhau rồi ném lựu đạn vào một số thường dân qua đường bị chết. Trường hợp này cũng bị cáo giác là do Việt Cộng khủng bố.
Trong những vụ khác, sự thật đã phơi bày một cách tình cờ. Đề cập đến một ví dụ đặc biệt phi lý, kịch cỡm, tại nơi mà hài cốt của những nạn nhân vụ Mỹ Lai đã được chuyển về đã bị không lực Việt Nam Cộng Hòa và trận không kích phá hủy. Nhưng như thường lệ, vụ này cũng đổ cho Việt Cộng khủng bố. Sự thật đã được những người theo đạo Quaker ở trong vùng phanh phui ra.
Những ví dụ trên đây gợi lên một điều những bản báo cáo chính thức là những sự dối trá và lừa bịp và trong một vài trường hợp đã được thay đổi thành những câu chuyện hoang đường chính thức. Một kết luận quan trọng hơn nữa là rằng nguồn tin chính thức nói chung đã hạn chế phẩm chất một cách tối đa. Chúng nêu lên những vấn đề nhưng không đưa ra câu trả lời đáng tin cậy nào.
Lê Hồng Phong, dịch
Tài liệu “Kinh tế chính trị về nhân quyền. (Tập I)
của Noam Chomsky
và Edwards S. Herman
“The Political Economy of Human Rights – Volume I”
By Noam Chomsky and Edward S. Herman
Black Rose Book, Montréal, 1979 – 5.2.3 The Hue Massacre of 1968 (Excerpts)
The essential claim of the myth of the Hue massacre (see note 157 : When we speak of “mythical Bloodbath” we do not mean to imply that no killings took place. In fact they did, on a considerable scale. But the evidence seems to us decisive that the core of truth was distorted, misrepresented, inflated and embellished with sheer fabrication for propaganda purposes. As for the events themselves, we are not attempting to offer any definitive account, but rather to compare the evidence available with its interpretation by government and the media.) Is that during their month – long occupation of Hue at the time of the Têt offensive o f 1968, NLF and North Vietnamese forces deliberately, according to an advance plan and ‘blacklist’, rounded up and murdered thousands of civilians, either because they worked for the government of represented “class enemies.’ The basic documentation supporting the myth consists of a report issued by the Saigongovernment in April 1968, a captured document made public by the US Mission in November 1969, and a long analysis published in 1970 by USIS employee Douglas Pike. Both the Saigon and Pike reports should have aroused suspicions on the basis of their source, their tone, and their role in an extended propaganda campaign, timed in the latter case to reduce the impact of the My Laimassacre. But, even more important, the substance of these documents does not withstand scrutiny. *
As in the case of the land reform bloodbath myth just discussed, official estimates of alleged NLF-DRV killings of civilians at Hue escalated sharply in response to domestic political contingencies, in this case, in the fall of 1969, coincident with the Nixon administration’s attempt to offset the effects of the October and November surge of organized peace activity and to counteract the exposure of the My Lai massacre in November 1969. Shortly after the Tet offensive it self, Police Chief Doan Cong Lap of Hue estimated the number of NLF-DVR killings at about 200, * and the mass grave of local officials and prominent citizens allegedly found by the Mayor of Hue contained 300 bodies.
(The authenticity of these numbers and responsibilities for these bodies is debatable, as is discussed below.) In a report issued in late April 1968 by the propaganda arm of the Saigon government, it was claimed that one thousand executions had been carried out by the Communists in and aroundHue, and that nearly half of the victims had been buried alive. Since the story was ignored, the USembassy put out the same report the following weeks, and this time it was headlined in the USpapers. The story was not questioned, despite the fact that NO WESTERN JOURNALIST HAD EVER BEEN TAKEN TO SEE THE GRAVE SITES WHEN THE BODIES WERE UNCOVERED. On the contrary, French photographer Marc Riboud WAS REPEATEDLY DENIEDPERMISSION TO SEE ONE OF THE SITES where the province chief claimed 300 civilian government workers had been executed by the Communists. When he was taken by helicopter to the alleged site, the pilot refused to land, claiming the area was ‘insecure.’ *
AFSC staff people in Hue were also unable to confirm the report of mass graves, though they reported many civilians shot and killed during the reconquest of the city.*
Len Ackland, an IVS worker in Hue in 1967 who returned in April 1968 to investigate, was informed by US and Vietnamese officials that about 700 Vietnamese we re killed by the Viet Cong, an estimate generally supported by his detailed investigations, which also indicate that the killings were primarily by local NLF forces during the last stages of the bloody month-long battle as they were retreating.* Richard West, who was in Hue shortly after the battle, estimated ‘several hundred Vietnamese and a handful of foreigners ‘ killed by Communists and speculated that victims of My Lai style massacre by the US-ARVN forces might have been among those buried in the mass grave. *
In the fall of 1969 a ‘captured document’ was discovered that HAD BEEN MYSTERIOUSLY SITTING IN THE OFICIAL FILES FOR 19 MONTHS, in which the enemy allegedly ‘admitted’ having killed 2,748 persons during the Hue campaign. This document is the main foundation on which the myth of the Hue massacre was constructed. At the time it was released to the press, in November 1969, Douglas Pike was in Saigon to push the Hue massacre story, at the request of Ambassador Ellsworth Bunker. Pike, an expert media manipulator, recognized that the American reporters love “documents,” do he produced documents. He also knew that virtually none of these journalists understood Vietnam e se, so that documents could be translated and reconstructed to con form with the requirements of the massacre. He also knew that few journalists would challenge his veracity and independently assess and develop evidence, despite the long record of official duplicity on Vietnam and the coincidence of this new document with official public relations needs of the moment.* - the My-Lai story had broken, and organized peace activity in the fall of 1969 was intense. Pike was correct on this point also, and the few indications of skepticism by foreign reporters were not allowed to interfere with the institutionalization of the official version.
… Apart from the “captured documents,” the most persuasive support for the alleged massacre from the findings of mass grave – but this evidence is as unconvincing as the managed documents. A fundamental difficulty arises from the fact that large numbers of civilians were killed in the US-Saigon recapture of Hue by the massive and indiscriminate use of firepower. David Douglas Duncan, the famous combat photographer, said of the recapture that it was a “total effort to root out and kill every enemy soldier. The mind reels at the carnage, cost and ruthlessness of it all’.* Another distinguished photographer, Philip Jones Griffiths, wrote that most of the victims “were killed by the most hysterical use of American firepower eve r seen” and were THEN DE SIGNATED “AS THE VICTIM S OF A COMMUNIST MASSACRE.” * Robert Shaplen wrote at the time : “Nothing I saw during the Korean war, or in the Vietnam war so far has been as terrible, in terms of destruction and despair, as what I saw in Hue.”* Of Hue’s 17,134 houses, 9,776 were completely destroyed.” And 3,169 more were officially classified as ”seriously damaged.” The initial official South Vietnamese estimate of the number of civilians killed in the fighting during the bloody reconquest was 3,776.* Townsend Hoopes, Undersecretary of the Air Force at the time, stated that in the recapture effort 80% of the buildings were reduced to rubble, and that “in the smashed ruins lay 2,000 dead civilians…”* The Hoopes and Saigon numbers exceed the highest estimates of NLF-DRV killings, including official ones, that are not demonstrable propaganda fabrications. According to Oberdorfer, the US Marines put Communist losses at more than 5000, while Hoopes states that the city was captured by a Communist force of 1000, many whom escaped – SUGGESTING AGAIN THAT MOST OF THE KILLED WERE CIVILIAN VICTIMS OF US FIREPOWER.
Some of the civilians casualties of this US assault were buried in mass graves by the NLF along side their own casualties (according to NLF-DRV sources), and a large number of civilians were bulldozed into mass graves by the ‘allies.” * The NLF claim to have buried 2000 victim s of the bombardment in mass graves.* Oberdorfer says that 2800 “victims of the occupation” we re discovered in mass graves, but he gives no reason for believing that the se we re victims of the NLF-DRV “political slaughter” rather than people killed in the US bombardment He seems to have relied entirely on the assertions of the Ministry of Propaganda. Fox Butterfield, in the NEW YORK TIMES of 11 April 1975, even places all 3,000 bodies in a single grave! Samuel Adams, a former analyst with the CIA, wrote in the WALL-STREET-JOURNAL of March 26, 1975 that “South Vietnamese and Communist estimates of the dead coincide almost exactly. Saigon says it dug up some 2,800 bodies; a Viet Cong police report puts the number at about 3,000.” There are no known “police report” that say any such thing; and it is apparently never occurred to Adams that the 2,800 figure might have been adjusted to the needs of the mistranslated document.
An interesting feature of the mass grave, as noted earlier, is that INDEPENDENT JOURNALISTS WERE NEVER ALLOWED TO BE PRESENT AT THEIR OPENING, AND THAT THEY HAD DIFFICULTY LOCATING THEIR PRECISE WHEREABOUTS DESPITE REPEATED REQUESTS.” One of the author spoke with a US Marine present at the first publicized grand opening, who claims that the reporters present were carefully hand-picked reliable, THAT THE BODIES WERE NOT AVAILABLE FOR INSPECTION, and that he observed TRACKS AND SCOUR MARKS INDICATIVE OF THE USE OF BULLDOZERS (ưhich the DRV and NLF did not possess).* Perhaps the only Western physician to have examined the graves, the Canadian Dr. Alje Vennema, found that the number of victims in the graves he examined were INFLATED IN THE US-SAIGON COUNT BY OVER SEVENFOLD, totaling only 68 in stead of the officially claimed 477, that most of the bodies had wounds and appeared to be victims of the fighting, and that most of the bodies he saw were clothed in MILITARY UNIFORMS.*
Little attention has been paid to the possibility that massacre victims at Hue may have been killed neither by the NLF-DVR, but rather by the returning Saigon military and political police’ Many NLF sympathisers “surfaced” during the Tet Offensive, cooperated in the provisional government formed by the revolutionaries in Hue, or otherwise revealed their support for the NLF. With the retreat of the NLFV forces from Hue in 1968 many cadres and supporters were left in a vulnerable position a potential victims of Saigon retribution. Evidence has come to light that the large scale retaliatory killing may have taken place in Hue by the Saigon forces AFTER its recapture. In a graphic description, Italian journalist Oriana Fallaci, citing a French priest from Hue, concluded that :” Altogether, there have been 1,000 killed (after “liberation” by Saigon forces). Mostly students, university teachers, priests. Intellectuals and religious people at Hue have never hidden their sympathy for the NLF.”*
…. In any case, given the very confused state of events and evidence plus the total unreliability of US-Saigon ”proof”, at a minimum it can be said that the NLF-DRV “bloodbath” at Hue was constructed on flimsy evidence indeed. It seems quite likely that U S firepower “saving” the Vietnamese killed many more civilians than did the NLF and DRV. It I s al so not unlikely that political killing s by the Saigon autho ritie s e xce ed any ma ssac re s by the NLF and DRV at Hue. The evidence indicates that “the vast majority of policemen, civil servants, and soldiers were initially on “reeducation” rather on the liquidation lists, but the number of killings mounted as military pressure of the NLF and North Vietnamese mounted.”* It is also of interest here, as in the land reform case, that the retreating Front forces “were severely criticized by their superiors for excesses which hurt the revolution’.* We have not yet heard of any such self-criticisms coming from US and Saigon superiors for their more extensive killing at Hue.
…. We have discussed several of the more blatant exercices of the US-Saigon propaganda machines, but it must be emphasized that even their day-to-day reports, which constituted the great mass of information about Indochina, should have been treated with comparable skepticism. On the rare occasion when competent reporters made serious investigations, the information presented by U S and Saigon sources turned out to be no less tainted. The Japanese reporter Katsuichi Honda once undertook to investigate the weekly report of the General Information Bureau of the US Army in Saigon entitled “Terrorist Activities by Viet Cong.” Pursuing “one isolated case” that interested him, he discovered that not only was amazingly brutal and persistent terrorism occurring regularly, it was actually being shielded from public scrutiny by Saigon’ s information control.” It soon appeared that the murders were not done by the NLF at all. There were, it seemed, innumerable “terrible facts” which had been secretly hushed up behind the scenes of the intensifying Vietnam war.*
In the case in question, he discovered that the assassination of five Buddhist student volunteers, officially victims of Viet Cong terror, had apparently been carried out by government forces. In another case, “drunken soldiers of the government quarreling among themselves threw grenades, and some civilian bystanders were killed,” the case again being reported “as another instance of “Viet Cong terrorism.”
In others cases, the facts have emerged only by accident. To mention one particularly grotesque example, the camp where the remnants of the My Lai massacre had been relocated was largely destroyed by ARVN air and artillery bombardment in the spring of 1972. The destruction was attributed routinely to Viet Cong terror. The truth was revealed by Quaker service worker s in the area.*
These examples point up the fact that in the instances in questions the official reports were lies and deceptions, and in some cases were converted into official myths; the more important conclusion is that official sources in general have extremely limited credibility. They raise questions, but provide no reliable answer.
Note: All the * in the text refer to supportive documents.
NDVN, ngày 4/12/07