Sunday, September 21, 2008

Không có gì mà ầm ĩ vì bản chất của cha đạo thờ tây là như vậy

Chức sắc "Công Giáo" không thấy nhục khi Việt Nam mất độc lập, không thấy nhục khi họ làm tay sai cho Pháp rồi tới Mỹ mà ngược lại họ rất vinh dự và tự hào ĐƯỢC như vậy. Vì sao:

Vì họ được núp bóng quân xâm lược ngồi trên đầu đa số người Việt Nam, được chia chác chiến lợi phẩm của quân cướp nước. Chỉ có quân xâm lược mới đập phá nhà chùa cướp đất xây nhà thờ ngay giữa những thành phố lớn để tưởng thưởng công lao làm tay sai và huấn luyện thêm con chiên phục vụ cho họ. Quân xâm lược Pháp-Mỹ là đồng minh của "Công Giáo". Quân xâm lược và "Công Giáo" có quyền lợi hỗ tương lẫn nhau. Cái này mạnh thì cái kia mới làm ăn được. Cái này mà thiếu cái kia thì không thể làm cha thiên hạ ở Việt Nam được.

Từ ngày Việt Nam được độc lập, "Công Giáo" không được làm cha về mặt chính trị cũng như tôn giáo nữa. Họ bị đá ra khỏi vũ đài chính trị và phải sống bình đẳng với những tôn giáo khác. Điều này là không thể chấp nhận được đối với quá khứ vàng son của họ và với một tôn giáo mà cho rằng họ là chân lý duy nhất ở trên tất cả, nên họ luôn luôn ấm ức mơ về kỷ niệm thời lên voi nhờ súng đạn của quân xâm lược. Bản chất phi dân tộc, thích và vinh hạnh được lòn cúi tây của họ là không bao giờ thay đổi.

Tuyên bố thẳng thừng của ông Ngô Quang Kiệt vừa qua đã khẳng định sự thật đó. Đối với những người có tham khảo sâu lịch sử mất nước, chia cắt và chiến tranh 100 năm vừa qua của Việt Nam thì tuyên bố này là tất nhiên và chẳng có gì là ngạc nhiên cả vì nó chỉ là tiếp nối truyền thống phản quốc của cái đạo thờ tây này thôi.

Trong bài dưới đây của ông Trần Chung Ngọc có nhắc tới vụ ông đạo David Koresh ở Mỹ. Ông này chỉ bị buộc tội tàng trữ vũ khí bất hợp pháp không chịu ra đầu thú (nước Mỹ là nước có quyền sở hữu súng) mà chính quyền Mỹ đã đem xe tăng đến đốt nguyên khu nhà đạo làm chết thui 75 người đàn ông, đàn bà, con nít (21 con nít). "Công Giáo" trong lịch sử Việt Nam là một tôn giáo phản quốc, tội này lớn hơn nhiều, mà chưa bao giờ nhà nước Việt Nam làm những chuyện như vậy bao giờ, như vậy những ông "cha" tăm tối này vẫn không hề biết điều một chút xíu nào. Tối ngày chỉ biết ôm cuốn "kinh thánh" nói láo, còn lịch sử dân tộc thì dốt đặc cán mai.

Ông Kiệt còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo có nghĩa là muốn là phải được chứ không có chuyện "xin cho" đủ cho thấy cái tâm lý hoang tưởng nghĩ mình là cha thiên hạ của những ông "cha" này nó lố bịch đến cỡ nào.

-------------------------------------------------------------

Trần Chung Ngọc -

VÀI NHẬN ĐỊNH KHI ĐỌC BÀI PHÁT BIỂU

CỦA ÔNG NGÔ QUANG

KIỆT

Tôi vừa đọc trên VietCatholic News bài phát biểu của ông Ngô Quang Kiệt trong cuộc họp với UBND TP Hà Nội ngày 20.09.2008. Sau đây tôi có vài nhận định về bài phát biểu đó.

Ngô Quang Kiệt: Tôi hết sức cám ơn ông Chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội cũng như là tất cả các ban ngành trong Thành Phố Hà nội đã dành cho chung tôi một buổi tiếp xúc vừa trân trọng vừa cởi mở và chân tình. Những lời ông Chủ tịch nói kết thúc thật là đẹp và tất cả chúng ta ai cũng mong muốn, thật ra có một sự hài hoà trong cái khối đoàn kết thống nhất. Tuy nhiên muốn có cái hài hoà trong cái mối thống nhất thì đâu chỉ có cái tình mà phải có lý nữa, tục ngữ Pháp có nói rằng: những cái tính toán nó đúng mực nó mới là những người bạn tốt được. Muốn bạn tốt với nhau cũng phải tình lý phân minh chứ không phải chỉ có tình mà thôi. Chính vì thế tôi cũng xin có một vài lời cuối cùng trước những lời kết thúc của ông Chủ tịch.

TCN: Thưa với ông Ngô Quang Kiệt, với cái lý nào mà ông huy động giáo dân, kể cả bà già và con nít, đến cầu nguyện ở ngoài đường phố suốt ngày này sang ngày khác, dùng loa phóng thanh gây ồn ào cho dân chúng quanh vùng, làm cản trở giao thông công cộng v…v… Với cái lý nào mà ông để cho các con chiên của ông cầu nguyện với búa, kìm, xà beng và dùng chúng để phá sập hàng rào sắt trên vùng đất tòa khâm sứ cũ và mang cây thập ác và tượng bà Mary vào cắm đặt trong khuôn viên không thuộc giáo hội. Phải chăng đó là cái lý của một lũ côn đồ cuồng tín, bất chấp luật pháp quốc gia, hay là đó là cái lý của chúa? Dù sao chúng tôi cũng không thể chấp nhận cái lý đó và coi đó chỉ là những hành động hung hăng, lợi dụng chính sách cởi mở và khoan dung của Nhà Nước .


Ngô Quang Kiệt: Trước hết ông chủ tịch có nói rằng: Uỷ ban nhân dân TP đã tạo rất là nhiều điều kiện cho Giáo Hội Công Giáo trong những năm qua nhất là dịp Lễ Noel… chúng ta phải công nhận trong những năm gần đây có nhiều điều kiện, thế tuy nhiên khi như thế, khi nói tạo điều kiện vẫn còn mang cái tâm lý xin cho: tức là cái này là ân huệ tôi ban cho anh đó. Nhưng mà cái tôn giáo là cái quyền tự nhiên con người được hưởng. Và nhà nước vì dân cho dân phải có trách nhiệm tạo cái điều đó cho người dân chứ không phải cái ân huệ chúng tôi xin. Không có. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là cái ân huệ “xin cho”.


TCN: Ông Kiệt chỉ biết một mà không biết hai. Tôn giáo là cái quyền tự nhiên của con người được hưởng, ông nói đúng. Tuy nhiên còn phải xét đó là cái tôn giáo nào, và sự thực hành tôn giáo đó có phương hại gì đến quốc gia dân tộc hay không. Bài học của Mỹ, nước tuyệt đối tôn trọng quyền tự do tôn giáo, nhưng chính quyền Mỹ đã dùng đến xe tăng dẹp tan giáo phái của David Koresh ở Waco, Texas. Ở Việt Nam, nếu tôn giáo đó là công giáo thì tôn giáo đó đã có một lịch sử ô nhục phản bội quốc gia, làm tay sai cho Pháp để đưa đất nước vào vòng đô hộ của Pháp. Ông Kiệt có dám lên tiếng phủ nhận sự kiện lịch sử này không? Tôi xin giúp ông nhận rõ vấn đề qua vài tài liệu:

Trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874, Mark W. McLeod, giáo sư đại học về môn sử, viết, trang 45-47:

"Vai trò của những tín đồ Công giáo trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha là gì?..Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Công giáo Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn quân chiến đấu của Tây phương. Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà. Một trong hai chi đội trên chiến đấu sát cánh với quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống miền Nam, dự phần chiến đấu trong cuộc xâm lược "lục tỉnh" và họ đã dự trận Kỳ Hòa. Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Công giáo Việt Nam đã phục vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo, trong những vùng chiếm được ở miền Nam. Vì những dịch vụ này, họ được Đô Dốc - Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn.

(What was the role of the Vietnamese Catholics during the Franco-Spanish invasion?... In fact, French archival sources show clearly that, as early as September 1858, groups of Catholics began to reach the embattled European armies. Rigauld de Genouilly formed the men into two indigenous detachments and trained them at a camp at Tien Cha. One of these detachments fought alongside the Franco-Spanish soldiers at Da-nang; the other went southward to participate in the invasion of the "luc tinh" and fought in the battle of Ky Hoa. After the battle of Ky Hoa, the indigenous Catholics militamen who entered the service of the Europeans at Da nang continued to serve the French in the occupied south as soldiers, interpreters, coolies, and guides. They were rewarded for their services by Admiral-Governor de la Grandière, who granted them concessions of land in the Saigon area.

Và ở trang 114-122:

"Bản chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Công giáo là như thế nào?

Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand. được Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Công giáo bao gồm - nhưng không chỉ giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân sự. Những nguồn tài liệu này cũng cho chúng ta thấy một kiểu xoay sở lẫn nhau giữa các sĩ quan Pháp và các thừa sai Công giáo với kết quả là những kẻ "tình nguyện" thường cũng được lợi bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.

... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công giáo và các lực lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công giáo Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Công giáo dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Công giáo đã dùng sức lao động, tài nguyên, và tin tức tình báo (của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN), đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi- Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Công giáo thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."

(What was the nature and extent of the assistance that the Catholics brought to the French expedition?

The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched by Garnier to obtain the submission of many of the provincial citadels and strongpoints of the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance that included - but not limited to - formal administrative and military duty. These sources further reveal a pattern of mutual manipulation by French officers and Catholic missionaries in which the "volunteers" often had as much or more to gain from the relationship as did the French officers.

...It is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong and Harmand's at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic Missions and the French forces. The analysis reveals that the French were far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese authority because the invaders received a significant level of support from the missionaries and the Vietnamese Catholics. Moreover, the methods of the French officers and their Catholic collaborators could hardly be considered as evidence of a superior morality even by their own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor, resources, and information in return for French assistance in perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist religious edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of imperial citadels. This Catholic collaboration with French imperialism has not been adequately recognized by historians, but it was a significant contributing factor to the French success in Tonkin.)

Nhưng văn kiện rõ ràng hơn cả và có tính cách khẳng định sau đây là của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:

"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Công Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Công Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."

(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)

Vậy thì ông Ngô Quang Kiệt thử nghĩ, một tôn giáo như vậy có phải là quyền tự nhiên của con người không khi mà cái quyền đó chỉ là quyền phản quốc.

Ngô Quang Kiệt: Cái thứ hai, ông chủ tịch có nói mọi cư xử phải va dựa trên pháp luật và cũng phải trên tình người, và công dân. Cái điêu đó tôi rất đồng ý, rất là tâm đắc. Tuy nhiên trong cái thực chúng ta phải làm như thế. Đó về phương diện pháp luật chúng ta phải làm theo pháp luật, thì cái gì cũng phải có cơ sở pháp lý. Ông chủ tịch có nói rằng: đất đai thì nó từ ngàn xưa không biết nguồn gốc từ đâu mà đến thời Giáo Hội Công Giáo thì lại được trao cấp cái đó thì chúng tôi công nhận cái đó. Thế nhưng ít ra khi cấp như thế người ta có một mảnh giấy công nhận là đây được cấp. Và đến thời chính quyền sau có thể thay đổi, nhưng phải có giấy tờ để chứng minh cái sự thay đổi (và không ai có thể thay đổi được là làm sao?). Thế thì trên mảnh đất 42 chúng tôi chưa được cái văn bản nào của nhà nước nói về cái sự thay đổi đó.

Không có đi vào cái diện cải tạo tư sản, không có đi vào cái diện cải tạo nông nghiệp, cũng không có cái văn bản nói lên sự tịch thu hay là trưng thu trao cho cơ quan nào… hoàn toàn không có. Thực ra có thể nói việc quản lý của cơ quan nào đó là chưa có hợp pháp, trên cái căn bản là chúng ta phải có giấy t, chứ bây giờ kẻ cướp vào nhà chúng tôi rồi ngang nhiên ở đó rồi không có giấy tờ gì hết và họ mạnh chúng tôi không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm hay sao?! phải có giấy tờ, cần có văn bản pháp lý. Thế thì về vấn đề pháp luật thì vấn đề đất 42 chúng tôi chưa hài lòng với câu trả lời của ông. Chúng ta phải sống theo pháp luật, thì phải có văn bản giấy tờ của chính quyền. Chính quyền này có thể thay đổi, chính quyền sau có thể thay đổi nhưng phải có giấy tờ văn bản rõ ràng. Chúng tôi thấy đất 42 chưa có cái văn bản đó.

TCN: Tài liệu lịch sử đã rõ ràng: Vì những dịch vụ này [hỗ trợ quân Pháp, phản bội Việt Nam], họ [Công giáo] được Đô Dốc - Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn. Đất này có phải là do thực dân Pháp ăn cướp của nhân dân Việt Nam hay không. Và tòa khâm sứ cũng như nhà thờ lớn ở Hà Nội cũng không ra ngoại lệ, cũng chỉ đất của Chùa Báo Thiên của nhân dân Việt Nam mà thực dân Pháp đã ăn cướp rồi trao cho tay sai Nguyễn Hữu Độ xây dựng các cơ sở Công giáo. Vậy thì, dù có giấy tờ trao cấp, nhưng là ai trao cấp, và khi thực dân Pháp bị đuổi ra khỏi Việt Nam thì những giấy tờ trao cấp này có còn có giá trị pháp lý không. Người Công giáo, dựa thế của quân xâm lược Pháp, đã thực hiện sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi- Công giáo, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Vậy thì, viết theo ý của ông Kiệt, chứ bây giờ kẻ cướp [Pháp và các tay sai công giáo Việt] vào nước chúng tôi rồi ngang nhiên ở đó rồi bày đặt ra các giấy tờ này nọ để chiếm hữu đất đai và họ mạnh, chúng tôi không đuổi ra được thì đương nhiên họ chiếm hay sao?! Nhưng khi chúng tôi đã đủ mạnh để đuổi bọn cướp đi rồi thì các giấy tờ, văn bản phi pháp đó có còn giá trị gì không? Và các tay sai có quyền gì trong các giấy tờ, văn bản đó? Ông nên biết, trong các nước tân tiến, mua phải đồ ăn cắp cũng là có tội, huống chi là toa rập với giặc ngoại xâm để ăn cướp. Giấy tờ nào trao cấp cho quyền sở hữu ở La Vang, vốn là đất chiếm đoạt của Chùa Lá Vàng? Giấy tờ nào trao cấp cho quyền sở hữu nhà thờ Đức Bà ở TP Hồ Chí Minh, vốn cũng là đất của Phật Giáo? Do đó, ở đoạn sau của bài phát biểu, ông Ngô Quang Kiệt nói về chuyện đòi đất ở tòa Khâm sứ và Thái Hà và cho đó là những nguyện vọng chính đáng thì không hợp lý mà cũng chẳng hợp tình. Nguyện vọng nào chính đáng với búa, kìm, và xà beng? Nguyện vọng chính đáng nào với những hành động côn đồ phá hoại cắm bậy cây thập ác và đặt bậy tượng bà Mary?

Ngô Quang Kiệt: "Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.”

TCN: Sau vụ 9-11 ở New York cách đây 7 năm thì tất cả mọi nước đều rất cẩn thận kiểm soát những người nhập cảnh, và điều này áp dụng cho mọi công dân các nước chứ không riêng gì Việt Nam. Ông cho đó là chuyện nhục nhã, nhưng đó chỉ là quan điểm phi dân tộc cố hữu của ông mà thôi. Nhưng nhân danh là một tổng giám mục người Việt nam mà ông phát ngôn bậy như vậy thì tôi không hiểu người dân Việt Nam sẽ nhìn ông và con chiên của ông với cặp mắt nào. Hay là ông coi ông là dân chúa nên có quyền miệt thị người dân Việt Nam. Tôi tuy là công dân Mỹ và mang sổ thông hành của Mỹ nhưng tôi rất tự hào là người gốc Việt Nam. Tôi dám chắc ông chưa đi nước ngoài nhiều như tôi, và đi đến đâu, khi được hỏi tôi cũng nói tôi là người Việt Nam. Có hai lý do: mũi tẹt da vàng mà nói là người Mỹ thì cũng hơi buồn cười, và Việt Nam rất được thế giới kính nể. Tại sao? Vì Việt Nam có một lịch sử chống ngoại xâm oai hùng nhất thế giới. Trong thời cận đại, từ hoàn cảnh bị đô hộ nhưng Việt Nam đã vùng lên để đánh bại hai nước mạnh nhất thế giới là Pháp và Mỹ.

Tôi nghĩ rằng ông Kiệt nên đổi câu nói lại thành: “…chúng tôi cảm thấy rất nhục nhã vì mang căn cước của người Công giáo” thì có lẽ đúng hơn. Tại sao?

- Vì người Công giáo chúng tôi đã có thành tích là một tập đoàn phi dân tộc, phản bội quốc gia.

- Vì người Công giáo chúng tôi đã lại liên kết với thực dân Pháp khi Pháp toan tính trở lại đô hộ Việt Nam, nhận vũ khí của Pháp để lập những khu công giáo Bùi Chu, Phát Diệm, giúp Pháp săn lùng giết hại người kháng chiến yêu nước.

- Vì năm 1954, khi Pháp thua trận và phải rút về miền Nam vĩ tuyến 17, thì 700000 người Công giáo chúng tôi lại líu ríu theo chân Đức Mẹ, đã chạy trước vào Nam, để chạy theo Pháp, rồi dựa thế chính quyền Công giáo Ngô Đình Diệm cưỡng chiếm đất đai của người dân, và giết hại vô số dân lành và người ngoại đạo, vu cho họ là CS.

- Và vì, chúng tôi đích thực là nô lệ của Giáo Hoàng người ngoại quốc, theo đúng như nhận định của Thomas Henry Huxley (1825-1895), một khoa học gia Anh, về người Công giáo và Tin Lành:

Từ một nô lệ của chế độ giáo hoàng [người Công giáo], người trí thức đã trở thành nông nô của cuốn Thánh kinh [người Tin Lành] (From being a slave of the papacy [a catholic] the intellect was to become the serf of the Bible [a protestant].)

Friday, September 19, 2008

Trả không nổi tiền nhà thì ra đường ngủ

Nước nghèo như Việt Nam nếu có nằm đường là chuyện bình thường, nhưng nước giàu nhất thế giới như Mỹ với những đại tập đoàn đa quốc gia làm ăn trên khắp thế giới, thừa tiền núi để chế đủ thứ bom đạn vũ khí giết người, có hàng trăm tỉ cứu vớt các nhà băng tư nhân sắp phá sản nhưng không có tiền chứa những người dân đen mất nhà mới đáng nói.

Vòng quanh nước Mỹ những "thành phố lều" mọc lên như nấm. 61% những liên đoàn người không nhà của địa phương và các tiểu bang báo cáo số người không nhà tăng lên từ khi vụ giá nhà sụp đổ vào năm 2007. Báo cáo đó được làm từ tháng 4, tình hình đã trở nên xấu hơn nhiều từ lúc đó vì giá xăng, thực phẩm tăng và thị trường lao động bị thu hẹp.

Tình hình tệ hại nhanh chóng này làm các nhóm thiện nguyện ngạc nhiên.

Bộ Nhà Đất và Phát Triển Đô Thị (HUD) gần đây báo cáo số lượng người không nhà giảm 12% trên toàn quốc từ 754.000 xuống còn 666.000 vào tháng 1/2007. Nhưng con số của 2007 bỏ qua số người mà những năm trước đó được xếp vào loại không nhà - ví dụ như những người sống nhờ bà con hay bạn bè của họ hoặc trong những khu cắm trại hoặc nhà trọ hơn một tuần.

Để so sánh, toàn bộ quân số tại ngũ hiện nay của Việt Nam là 484.000 theo wikipedia

Hơn thế nữa, báo cáo trên của HUD được soạn thảo một thời gian trước khi thị trường nhà đất bị đổ vỡ và khủng hoảng kinh tế bắt đầu. Người phát ngôn của HUD nói rằng con số đó biểu thị tình trạng của ngày hôm qua chứ không phản phản ánh hiện tại. "Vụ khủng hoảng nhà đất đã ảnh hưởng đến số người không nhà như thế nào là một câu hỏi lớn. Chúng tôi đang tìm câu trả lời." Brian Sullivan nói.

Ở Seatle, nơi đang chứng kiến một sự bùng nổ xây dựng và sự tràn vào của những chuyên gia giàu có ở những nơi mà trước đó là những khu vực của người lao động, những trại lều cũng đang mọc lên - ở những nơi vắng vẻ để tránh sự ruồng bố của cảnh sát.

-------------------------------------------------------------

In hard times, tent cities rise across the country

Since foreclosure mess, homeless advocates report rise in encampments

updated 1:36 p.m. PT, Thurs., Sept. 18, 2008

RENO, Nev. - A few tents cropped up hard by the railroad tracks, pitched by men left with nowhere to go once the emergency winter shelter closed for the summer.

Then others appeared — people who had lost their jobs to the ailing economy, or newcomers who had moved to Reno for work and discovered no one was hiring.

Within weeks, more than 150 people were living in tents big and small, barely a foot apart in a patch of dirt slated to be a parking lot for a campus of shelters Reno is building for its homeless population. Like many other cities, Reno has found itself with a "tent city" — an encampment of people who had nowhere else to go.

Image: Tent city in Reno
Homeless encampments are springing up around the country, including this one next to the homeless shelter in downtown Reno, Nevada

From Seattle to Athens, Ga., homeless advocacy groups and city agencies are reporting the most visible rise in homeless encampments in a generation.

Nearly 61 percent of local and state homeless coalitions say they've experienced a rise in homelessness since the foreclosure crisis began in 2007, according to a report by the National Coalition for the Homeless. The group says the problem has worsened since the report's release in April, with foreclosures mounting, gas and food prices rising and the job market tightening.

"It's clear that poverty and homelessness have increased," said Michael Stoops, acting executive director of the coalition. "The economy is in chaos, we're in an unofficial recession and Americans are worried, from the homeless to the middle class, about their future."

Caught by surprise
The phenomenon of encampments has caught advocacy groups somewhat by surprise, largely because of how quickly they have sprung up.

"What you're seeing is encampments that I haven't seen since the 80s," said Paul Boden, executive director of the Western Regional Advocacy Project, an umbrella group for homeless advocacy organizations in Los Angeles, San Francisco, Oakland, Calif., Portland, Ore. and Seattle.

The relatively tony city of Santa Barbara has given over a parking lot to people who sleep in cars and vans.

The city of Fresno, Calif., is trying to manage several proliferating tent cities, including an encampment where people have made shelters out of scrap wood.

In Portland, Ore., and Seattle, homeless advocacy groups have paired with nonprofits or faith-based groups to manage tent cities as outdoor shelters.

Other cities where tent cities have either appeared or expanded include include Chattanooga, Tenn., San Diego, and Columbus, Ohio.

The Department of Housing and Urban Development recently reported a 12 percent drop in homelessness nationally in two years, from about 754,000 in January 2005 to 666,000 in January 2007. But the 2007 numbers omitted people who previously had been considered homeless — such as those staying with relatives or friends or living in campgrounds or motel rooms for more than a week.

In addition, the housing and economic crisis began soon after HUD's most recent data was compiled.

"The data predates the housing crisis," said Brian Sullivan, a spokesman for HUD. "From the headlines, it might appear that the report is about yesterday. How is the housing situation affecting homelessness? That's a great question. We're still trying to get to that."

In Seattle, which is experiencing a building boom and an influx of affluent professionals in neighborhoods the working class once owned, homeless encampments have been springing up — in remote places to avoid police sweeps.

Image: Homeless man with dog
Scott Sady / AP
Robert Scott Cook, originally from Alaska, sits with one of his dogs, Zoey, at the tent city that sprung up next to the homeless shelter in Reno, Nev.

"What's happening in Seattle is what's happening everywhere else — on steroids," said Tim Harris, executive director of Real Change, an advocacy organization that publishes a weekly newspaper sold by homeless people.

Homeless people and their advocates have organized three tent cities at City Hall in recent months to call attention to the homeless and protest the sweeps — acts of militancy, said Harris, "that we really haven't seen around homeless activism since the early '90s."

In Reno, officials decided to let the tent city be because shelters were already filled.

Officials don't know how many homeless people are in Reno. "But we do know that the soup kitchens are serving hundreds more meals a day and that we have more people who are homeless than we can remember," said Jodi Royal-Goodwin, the city's redevelopment agency director.

Those in the tents have to register and are monitored weekly to see what progress they are making in finding jobs or real housing. They are provided times to take showers in the shelter, and told where to go for food and meals.

Hopes for casino jobs dashed
Sylvia Flynn, 51, came from northern California but lost a job almost immediately and then her apartment.

Since the cheapest motels here charge upward of $200 a week, Flynn ended up at the Reno women's shelter, which has only 20 beds and a two-week limit on stays.

Out of a dozen people interviewed in the tent city, six had come to Reno from California or elsewhere over the last year, hoping for casino jobs.

"I figured this would be a great place for a job," said Max Perez, a 19-year-old from Iowa. He couldn't find one and ended up taking showers at the men's shelter and sleeping in a pup tent barely big enough to cover his body.

The casinos are actually starting to lay off employees.

"Sometimes I think we need to put out an ad: 'No, we don't have any more jobs than you do,'" Royal-Goodwin said.

The city will shut down the tent city as soon as early October because the tents sit on what will be a parking lot for a complex of shelters and services for homeless people. The complex will include a men's shelter, a women's shelter, a family shelter and a resource center.

Reno officials aren't sure whether the construction will eliminate the need for the tent city. The demand, they say, keeps growing.

Thursday, September 18, 2008

Kế Hoạch Bí Mật của Pius - Spellman - Dulles

Theo đạo có gạo mà ăn
Có tiền tiêu vặt, có đằng thăng quan


----------------------------------------
Những mục tiêu tối thượng của chiến dịch, ngoài những cái đã được miêu tả, là:

1. Tạo ra một cộng đồng Công Giáo đồng nhất mà dựa vào đó Diệm và Mỹ có thể tin cậy để tiến hành cuộc chiến tranh chống lại miền Bắc, và chống lại những đơn vị du kích miền Nam.

2. Dựng lên một quốc gia do Công Giáo điều khiển, mà từ đó Vatican có thể điều khiển hoạt động của những chi nhánh tôn giáo ở Châu Á.

Mỹ, đồng minh chính của Vatican, ủng hộ cả hai mục tiêu trên đến mức nước này xem chúng là những công cụ cần thiết mà qua đó nó có thể thực hiện chiến lược chính của mình. Vào giai đoạn này, điều cần phải làm là: gấp rút chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam, bình định trong tương lai và ổn định cả khu vực sau đó.

Trong khi đối với Vatican, những mục tiêu này, trong khía cạnh chính trị và quân sự, thì đáng được ủng hộ, nhưng đằng sau và xa hơn nữa, Vatican còn có một ý đồ quan trọng hơn nhiều so với cả hai, có thể bao quát trong chính sách tôn giáo toàn cầu dài hạn. Kế hoạch này có thể tóm tắt trong việc xếp đặt một quốc gia Công Giáo kiểu mẫu ngay trung tâm Đông Nam Á. Sự hình thành của nó đòi hỏi một chính quyền hoàn toàn Công Giáo, được phát xuất từ một hạt nhân của người Công Giáo, mà 100% tin cậy được, về tinh thần tôn giáo cũng như ý thức hệ, bỏ qua thực tế là họ phải cai trị một đại đa số người theo Phật Giáo. Để đạt được mục tiêu này, việc cần thiết trước hết là phải trung hòa những đối tượng có thể là trở ngại của kế hoạch này; sau đó là trừ khử những người công khai chống đối; và cuối cùng là loại bỏ bất cứ ai hay bất cứ cái gì không chịu chấp nhận việc Công Giáo Hóa miến Nam.

Kế hoạch này là con đẻ của Giáo Hoàng Pius XII, và đã được ủng hộ bởi Hồng Y Spellman, được tiếp tay bởi John Foster Dulles. Nó đã được chấp thuận bởi những quan chức nhỏ trong đám thân cận của những người vận động hành lang Công Giáo ở Washington, không kể đến một số thành phần nhất định trong CIA, mà nhiều người trong số họ không phải là người Công Giáo. Nó cũng được chấp nhận bởi một số nhà chiến lược chính trị ở Lầu Năm Góc, mà quan tâm chímh của họ là, chỉ cần kế hoạch đó phục vụ những mục tiêu chiến lược của người Mỹ, thì muốn làm gì cũng được cả.

Chiến dịch tái định cư được tiến hành trong sốt sắng. Những cơ quan đủ loại được lập nên cho mục đích đó. Chính phủ Diệm lập thêm chúng mỗi ngày. Những cơ quan làm việc có hiệu quả cao và kết quả tốt nhất là những cơ quan được lo liệu bởi Mỹ, hay đúng hơn là bởi tiền thuế của người Mỹ, mà đa số là người Tin Lành. Tiền của Mỹ đổ vào ngay lập tức. 40 triệu đô-la để tái định cư người Công Giáo. Điều này có nghĩa là mỗi người Công Giáo rời Bắc Việt vào Nam, đã được đài thọ 89 đô-la bởi người Tin Lành Mỹ để tăng cường sức mạnh cho chính quyền Diệm. Ở đây, phải nhớ rằng, thu nhập trung bình của một người Phật Giáo ở nước này chỉ có 85 đô-la một năm.
Hồng Y Spellman, một trong những người có khả năng nhất trong các hồng y Mỹ. Ông ta là một người điều hành tài chính khéo léo và một chính trị gia xông xáo. Ông ta đã trở thành một trong những tác nhân chính của Chiến Tranh Lạnh vì ông ta tin rằng chủ nghĩa bônsêvíc, hình thành ở nước Nga Sô Viết, có bản chất quỉ quái và phải được ngăn chận hay có thể được thì tiêu diệt luôn. Ông ta là một người bạn gần gũi của của Giáo Hoàng Pius XII từ những ngày mà Pius còn là Papal Nuncio ở Đức và đã giúp Đức Quốc Xã thành lập một chính quyền hợp pháp vào tháng Giêng, 1933. Pius XII dùng Spellman như một người phát ngôn cho Vatican ở Mỹ để ảnh hưởng những chính trị gia, doanh nhân, lãnh đạo quân sự, và nhóm vận động hành lang Công Giáo. Ông ta tích cực trong việc thuyết phục nước Mỹ chọn Diệm và ủng hộ ông ta làm tổng thống Nam Việt Nam. Ông ta được phong Vicar General của Các Lực Lượng Vũ Trang Mỹ và gọi những người lính Mỹ là "Chiến Sĩ của Ki-tô" trong những chuyến thăm thường xuyên đến tuyến đầu của cuộc chiến Việt Nam. Ông ta tin rằng cuộc chiến đó là một cuộc chiến tranh chính nghĩa để cứu nền văn minh Ki-tô.

Người đóng thuế Mỹ hỗ trợ những người Công Giáotrong hơn hai năm. Ngoài chuyện đổ vào hàng triệu đô-la, họ còn gửi hàng tấn thực phẩm, đồ dùng và dụng cụ nông nghiệp, xe cộ và nhiểu loại vật phẩm khác, mọi thứ đều được chi trả và bù đắp bởi "Chương Trình Cứu Trợ" Mỹ. Sự tiếp tế không ngừng của người Mỹ này được phân phối và từ đó được điều khiển bởi "Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo", một chi nhánh của bộ máy Diệm. Chính quyền và hệ thống Công Giáo làm việc tay trong tay.

Nhân viên nhà nước tham khảo linh mục Công Giáo về chuyện hàng cứu trợ Mỹ hoặc tiền sẽ được chuyển đi chỗ nào, hoặc cho ai. Kết quả là người Công Giáo được mọi thứ, trong khi những người ngoài Công Giáo nếu may mắn thì được một bữa ăn hay vài xu.
Pius XII luôn có một tình cảm sâu đậm cho Hồng Y Francis Spellman, Tổng Giám Mục New York, người mà ông ta đưa lên hàng Hồng Y vào tháng 2/1946. Hai người này kiên trì vận động cho Chiến Tranh Lạnh, không bao giờ lên án kế hoạch của Mỹ dùng bom nguyên tử, ngay cả khi TổngThống Truman tuyên bố rằng "hình như Chiến Tranh Thê Giới Thứ III đã gần kề".
Pius XII tiếp tục ủng hộ nhóm vận động Mỹ chủ trương "một cuộc chiến tranh nguyên tử để phòng ngừa". Khi vào năm 1954 quân đội Mỹ lên kế hoạch dùng bom hạt nhân tấn công người Việt đang bao vây Pháp ở Điện Biên Phủ, cũng nhóm vận động của Vatican đó đã chấp nhận đề nghị này. Trong thời chính quyền Truman, khi anh em Dulles, Spellman và sau đó là Pius XII đã giúp thiết lập những chính sách của Mỹ, quân đội Mỹ dự định thả từ một cho đến sáu trái bom 31 kiloton trên lực lượng Việt Nam. Những trái bom này mạnh gấp ba lần trái bom ở Hiroshima. Kế hoạch dùng bom hạt nhân này được biết đến từ tài liệu giải mật trong tập đầu của 17 tập lịch sử Chiến Tranh Việt Nam chính thức xuất bản năm 1984 bởi văn phòng lịch sử Quân Đội.

Điều này ngược lại với những cộng đồng Công Giáo được lĩnh phần lớn đồ quyên góp từ Mỹ. Những cá nhân hay làng Phật Giáo thực tế bị làm lơ, cho dù họ từ Bắc vào hay người miền Nam cũng vậy. Kết quả là viện trợ Mỹ, đồ ăn, chuyên viên và những phụ giúp chung gần như được cho riêng người Công Giáo. Những người này còn tranh thủ cảm tình của Lãnh Đạo Quĩ Cứu Trợ Mỹ bằng cách tổ chức những nhóm dân quân của chính họ "để chiến đấu chống Cộng Sản và những người ủng hộ Cộng Sản", có nghĩa là người Phật Giáo.

Những nhóm vũ trang Công Giáo này được khuyến khích bởi nhân viên Mỹ, với sự trợ giúp của những giám mục Việt Nam. Những giám mục này xúi giục và che chở cho vô số những nhóm tự vệ Công Giáo địa phương. Những nhóm này trở thành "Những Đơn Vị Công Giáo Cơ Động, Bảo Vệ Nước Ki-tô" - có nghĩa là bảo vệ Giáo Hội Công Giáo. Họ mọc lên khắp nơi và sau đó được gọi là "Én Biển".

Thêm vào đó, Diệm coi sóc việc dân Công Giáo di cư được đưa vào những vị trí quan trọng trong chính quyền, quân đội chính qui, cảnh sát, từ vị trí cao nhất cho đến cấp tỉnh và quận. Cho đến khi nhiều viên chức và sĩ quan không phải là người Công Giáo đều bị thay thế hoặc giáng chức, nếu không phải là bị sa thải luôn. Việc Công Giáo Hóa bộ máy chính quyền đã được xúc tiến trong thời gian kỷ lục, với sự ủng hộ tích cực của Mỹ.

Mỹ đứng đằng sau chiến dịch chia bè phái lạ thường này được biểu lộ bằng việc chính ngoại giao Mỹ đã dựng lên Văn Phòng Điều Tra Việt Nam. Đơn vị bán vũ trang này được hỗ trợ bởi dân quân tự vệ Công Giáo nông thôn bao gồm khoảng 40.000 người.

Mỗi cấp bậc của chính quyền mới của Diệm đều được giữ bởi một người Công Giáo. Để chắc chắn rằng chỉ có người Công Giáo nắm những vị trí trọng yếu, Diệm dẹp bỏ thông lệ 500 năm bầu người trưởng làng và đặt vào vị trí này những người Công Giáo di cư từ Bắc vào. Khẩu hiệu của ông ta là: "Đặt viên chức Công Giáo vào những vị trí nhạy cảm. Họ có thể tin tưởng được."

Để thêm sức nặng vào cấu trúc phản dân chủ đó, Diệm giao nhiệm vụ cho linh mục Công Giáo cai quản đất của Giáo Hội làm chủ, điều này có nghĩa là trong gần như mỗi làng, ông linh mục địa phương hầu như trở thành một công chức, với quyền lực tôn giáo, quản lý và sức mạnh chính trị. Bên cạnh đó, Diệm thúc đẩy viện trợ của chính phủ cho đủ loại các tổ chức Công Giáo. Ông ta trợ giúp thêm - những đơn vị Công Giáo - vì những việc làm tốt. Những ban trật tự và những nhóm bán vũ trang, cộng thêm những đơn vị quân đội được huy động để xây dựng và sửa chữa những công trình Công Giáo. Những chương trình tuyên truyền Công Giáo được phát sóng trên radio quốc gia. Người Công Giáo được nhanh chóng thăng chức lên những vị trí cao nhất trong quân đội và hệ thống chính quyền. Những giám mục được tiếp đãi như những bộ truởng chính phủ trong những lễ lạc công cộng.

Kết quả to lớn của sự thiên vị trắng trợn cho bất cứ cái gì hay bất cứ ai là người Công Giáo này đã làm cho nhiều người quyết định theo Công Giáo. Hơn 33.000 người trở thành người Công Giáo vào cuối 1954. Viên chức trong chính quyền địa phương và quốc gia chọn cải đạo, để không bị ảnh hưởng đến sự nghiệp. Những người có tham vọng cũng làm như vậy. Những người khác nữa theo Công Giáo, và đã khám phá ra rằng người Công Giáo được đồ ăn ngon nhất, quần áo và tiền bạc, thật sự tìm ra rằng ngay cả khi Mỹ gửi cứu trợ - thực phẩm cho toàn bộ dân chúng Việt Nam, chỉ có người Công Giáo chắc chắn nhận được trợ giúp, người Phật Giáo thường là không được gì cả.

Sự thiên vị thái quá này cuối cùng đã được biết đến ở Mỹ khi có người khám phá ra rằng viện trợ được gửi đến Việt Nam phần lớn được phân phối bởi "Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo" trong hai năm, đã được cố ý dùng để thuyết phục người Phật Giáo cải đạo. Chứng minh được sự sai lạc này, viên chức Mỹ cuối cùng đã từ chối gửi thêm viện trợ cho tổ chức trên.

Nội bộ bè phái Công Giáo và quân đội ở Nam Việt Nam và trong nước Mỹ tạo áp lực lên Quốc Hội Mỹ đến mức quyết định trên bị dỡ bỏ. Mặc dù đã bỏ sang một bên cố gắng của họ để dấu diếm vụ bê bối đó vì sợ phản ứng của người Tin Lành Mỹ, nhưng cũng bị lộ ra rằng hàng trăm ngàn tấn thực phẩm được gửi sang cho khoảng 700.000 người - "thuộc mọi thành phần" chỉ được chia cho 270.000 cá nhân.

Một ông tướng Mỹ tham gia trong việc yêu cầu thực phẩm phải được đưa cho Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo, không ai khác hơn là Tướng William Westmoreland. Lạ lùng là, chính ông tướng đầu đàn này đã trở thành tín đồ Công Giáo La Mã trong khi tiến hành hoạt động quân sự ở Việt Nam, một nạn nhân điển hình của chiến dịch Công Giáo Hóa của Diệm. Người ta cũng tìm ra rằng trong khi người Công Giáo lĩnh được thực phẩm hoàn toàn miễn phí, người Phật Giáo phải trả tiền. Việc này không chỉ được áp dụng với viện trợ có nguồn gốc từ những tổ chức Công Giáo Mỹ mà còn cho những viện trợ từ chính phủ Mỹ để cứu trợ tất cả không phân biệt tôn giáo.

Kết quả của những việc kỳ thị cố ý này là hàng ngàn cá nhân, hoặc gia đình và thực tế là trong nhiều trường hợp là nguyên cả nhiều làng, trở thành người Công Giáo, được khuyến khích bởi lãnh đạo Công Giáo, hoặc bởi chính quyền Diệm. Nhiều người cải đạo không những để giữ công việc, mà còn để tránh bị thuyên chuyển, hay còn gọi là tái định cư. Tái định cư thường hay dẫn đến việc mất nhà, hay mất đất. Nếu bị thuyên chuyển đi chỗ khác, họ phải bỏ lại tất cả những tài sản, hoặc quan hệ xã hội, gia đình hay tôn giáo.

Mục tiêu chính của Diệm là một mục tiêu căn bản cho cả chính sách ngắn và dài hạn. Ông ta muốn củng cố sức mạnh của những cộng đồng Công Giáo bằng những cộng đồng Công Giáo mới, biến họ thành những trung tâm tin cậy được để từ đó xúc tiến những mục tiêu tôn giáo cũng như chính trị.
---------------------------------------------
The Pius-Spellman-Dulles Secret Scheme

The ultimate objectives of the operation, in addition to those already described, were two: (1) The creation of a solid homogenous Catholic community upon which Diem and the U.S. could rely for the prosecution of the war against the North, and against domestic guerrilla units. (2) The erection of a Catholic controlled state, from which the Vatican could operate its many-branched-religious administration in Asia.

The U.S., as the Vatican's principal ally, supported both objectives in so far that it regarded them the necessary instruments, via which it could carry out its main strategy. At this stage, its goals being: the hastening of the end of the Vietnamese war, the future pacification and subsequent stabilization of the entire region.

While to the Vatican, these objectives, in political and military terms, were worthy of support, yet, behind and beyond them, it had a scheme of far more import than either, as far as its long range religious global policy was concerned. The scheme could be summarized in the setting of a model Catholic state in the heart of Southeast Asia. Its creation entailed an administration which was totally Catholic, which was inspired by a nucleus of Catholics, which were 100 per cent reliable, religiously and ideologically, notwithstanding the fact that they had to rule a vast majority which practiced Buddhism. The achievement of this goal necessitated first the neutralization of those who might object to the scheme; secondly the elimination of those who would actively oppose it; and ultimately the removal of anyone or anything which did not accept the Catholicization of South Vietnam.

The scheme had been the brain child of Pope Pius XII, and had been supported by Cardinal Spellman, and had been abetted by John Foster Dulles. It had been approved by sundry U.S. politicians of the inner circle of the Catholic lobby in Washington, not to mention by certain elements at the CIA, many of whom were non-Catholics. Also by certain political strategists at the Pentagon, whose main concern was, that as long as the scheme served American strategic objectives, everything went.

Operation resettlement began in earnest. Agencies of all kinds were set up for the purpose. The Diem government spawned them daily. The most efficient and the most effective being provided by the U.S., or rather by the American taxpayers, the majority of whom are Protestants. U.S. money was poured in at once. The U.S. gave an instant 40 million dollars to resettle the Catholics. This meant that every Catholic, who had left North Vietnam, was given about 89 dollars each by Protestant America to reinforce the Catholic administration of Diem. This, it must be remembered, in a country where the average income of the average Buddhist was only 85 dollars per year.

Cardinal Spellman, one of the ablest of the American cardinals. He was a skillful financial operator and a vigorous politician. He became one of the main inspirers of the Cold War because of his belief that Bolshevism, as incarnated in Soviet Russia, was intrinsically evil and must be contained and if possible, destroyed. He was a personal friend of Pius XII since the days when Pius was Papal Nuncio in Germany and helped the Nazis form a legal government in January, 1933. Pius XII used Spellman as the spokesman for the Vatican in America to influence politicians, businessmen, military leaders, and the Catholic lobby. He was active in persuading the U.S. to select Diem and support him as president of South Vietnam. He was made Vicar General of the U.S. Armed Forces and called the GI's the "Soldiers of Christ" in his frequent visits to the Vietnam war front. He was convinced that the war was a just war to save Christian civilization.

The U.S. taxpayer supported the Catholics for more than two years. In addition to pouring out millions of dollars, it sent millions of tons of food, surplus agricultural instruments, vehicles and uncountable goods of kinds, everything covered and paid for by the U.S. "Relief Program." This American never-ending abundance was distributed and therefore controlled by the "Catholic Relief Services," a branch of the Diem machinery. The government and the Catholic hierarchy worked hand in hand.

State officials consulted the Catholic priests, as to where the U.S. relief or money should go, or to whom it should be given The result was that the Catholics got everything, whereas those who were not Catholic were lucky if they got a meal or a few cents.

Cardinal Spellman and Pope Pius XII. Pius always had deep affection for Cardinal Francis Spellman, Archbishop of New York, whom he raised to Cardinal in February, 1946. These two consistently promoted the Cold War, never condemning the U.S. plans to use the atom bomb, even after President Truman's declaration that "it looks like World War III is near."

Pius XII continued to support the U.S. lobby advocating "an atomic preventive war." When in 1954 the U.S. Army planned a nuclear attack on the Vietnamese, besieging the French at Dien Bien Phu, the same Vatican supported lobby gave their approval of the proposal. During the Eisenhower Administration, when the Dulles brothers, Spellman and thus Pius XII helped formulate U.S. policies, the U.S. military considered dropping from one to six 31-kiloton bombs on the Vietnamese forces. The weapons were three times as powerful as the Hiroshima bomb. This scheme to use nuclear weapons against Vietnam was disclosed in declassified material in the first volume of a 17-volume official history of the Vietnam War published in 1984 by the Army's historical office.

This in contrast to the Catholic communities which got the bulk of the U.S. donation. Individuals or Buddhist villages were practically ignored, whether they had come from the North or were native Southerners. The result was that the U.S. aid, food, technicians and general assistance was given almost exclusively to Catholics. The latter, to court the favor of the American Relief Fund Authorities, organized themselves into paramilitary militias "to fight the Communists and all those who supported them," meaning the Buddhists.

These Catholic armed groups were encouraged by American personnel, with the help of the Vietnamese Catholic bishops. The latter inspired and blessed numberless local self-defense Catholic groups. These became known as "Mobile Catholic Units, for the Defense of Christendom"—that is, for the defense of the Catholic Church. They sprang up everywhere and were soon labeled the "Sea Swallows."

In addition to the above, Diem saw to it that the new Catholic immigrants were given key positions in the government, the regular army, the police, from the top down to provincial and district levels. So that soon many officials and officers who were not Catholic were replaced or downgraded, if not dismissed altogether. The Catholicization of the state machinery was being promoted in record time, it must be remembered, with the active approval of the U.S.

That the U.S. was behind this incredible sectarian operation was demonstrated by the fact that the U.S. mission itself set up the Vietnam Bureau of Investigations. This open para-military unit was supported by a rural Catholic militia composed of more than 40,000 men.
Every echelon of Diem's new administration was filled with practicing Catholics. To make sure that only Catholics got all the key positions, Diem terminated the 500 year democratic tradition of the local villages by which chiefs were elected by the population and replaced them with the Catholics who had arrived from the North. His personal slogan: "Put your Catholic officers in sensitive places. They can be trusted."

To add more weight to such undemocratic structure, Diem then charged the Catholic priests with the administration of the land owned by the Church, which meant that in almost every village, the local Catholic priest, became a quasi public official, endowed with religious, administrative and political powers. Besides this, Diem then hastened government aid to Catholic organizations of all kinds. He gave extra help—to Catholic units—for good work. The vigilantes and the para-military groups, including sections of the army were employed to build and to repair Catholic buildings. Catholic propaganda was transmitted by the national radio. Catholics were hastily promoted to the top ranks in the Army and in the bureaucracy. The bishops were treated as state ministers in all public ceremonies.

The massive result of this blatant partiality for anything or anybody who was Catholic was that many decided to join the Catholic Church. More than 33,000 people became Catholic by the end of 1954. Officials in the national or local administration were converted, not to risk endangering their careers. Ambitious individuals did the same. Others became Catholics, having discovered that Catholics got the best food, clothing and money, indeed having found out that even when the U.S. sent relief—food for the Vietnamese population at large, only the Catholics were assured of help, the Buddhists more often than not, got nothing.

This outrageous favoritism eventually came into the open in the U.S. when finally it was discovered how all the aid which had been sent to South Vietnam and which had been distributed mostly by the "Catholic Relief Services" during two whole years, had been deliberately used to persuade Buddhists to become Catholic. Having proved such mishandling of American aid, the U.S. officials at long last refused to give more aid to Catholic Relief Service.

The inner Catholic and military cliques in South Vietnam and in the U.S. exercised pressure on Capitol Hill to such effect that eventually the ruling was changed. Yet, notwithstanding their efforts to hide the scandal for fear of Protestant reaction at home, it came to light that the hundreds of thousands of tons of food sent by the U.S., and meant for an estimated 700,000 people—"of all denominations" was received by only 270,000 individuals.

One American general involved in the request for food to be given to the Catholic Relief Services, was none other than General William Westmoreland. Curiously enough, this leading general became himself a convert to the Roman Catholic Church while conducting military operations in South Vietnam, an illustrious victim of Diem's Catholic proselytizing. It was eventually discovered that, whereas the Catholics got their food absolutely free, the Buddhists had to pay for it. This applied not only to funds which had been sent by Catholic organizations from the U.S., but also to funds which had been sent by the U.S. 

administration to be used for the relief of all independently of their religious affiliations.
The result of such deliberate discriminations was that thousands of individuals, or families and indeed in many instances of entire villages, became Catholics, encouraged by the Catholic authorities, or by the Diem government. Many changed their religion not only to retain their jobs, but to avoid bodily transfer, better known as resettlement. Resettlement more often than not, spelled the loss of the houses, or of the lands of those who had been resettled. By being transferred elsewhere, they had to leave behind all they had in terms of physical assets, or of social, family and religious ties.

Diem's main objective was a fundamental one as far as his short and long range policy was concerned. He wanted to strengthen Catholic communities with additional Catholic communities, to transform them into reliable centers from which to promote his religious and political objectives.

http://www.reformation.org/chapter9.html

Monday, September 15, 2008

Trần Chung Ngọc - Danh Nhân Âu Mỹ Nghĩ Gì Về Ki-Tô Giáo - Phần II

40. Thomas Henry Huxley (1825-1895), Khoa học gia Anh: * Tín điều về sự không thể sai lầm của Thánh kinh cũng chẳng hiển nhiên hơn tín điều về không sự sai lầm của các giáo hoàng (The dogma of infallibility of the Bible is no more self-evident than is that of the infallibility of the popes.) * Từ một nô lệ của chế độ giáo hoàng, người trí thức đã trở thành thân trâu ngựa của Thánh kinh (có nghĩa là bỏ Ca-Tô sang Tin lành. TCN) From being a slave of the papacy, the intellect was to become the serf of the Bible.) * Hệ thống giáo sĩ là kẻ thù sống chết của khoa học. Thuyết tiến hóa loại bỏ thuyết sáng tạo và mọi sự can thiệp của Thiên chúa (The ecclesiastical system is the deadly enemy of science. Evolution excludes creation and all other kinds of supernatural interventions.) * Hoài nghi là bổn phận cao nhất và đức tin mù quáng là tội không thể tha thứ được (Skepticism is the highest duty and blind faith the one unpardonable sin.)

41. Leo Tolstoy (1828-1910) văn hào Nga: * Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội (Ca-Tô) là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành (I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.) * Đúng vậy, tôi không chấp nhận một thuyết không hiểu được là thuyết Ba Ngôi, và huyền thoại về sự sa ngã của con người, vì chúng vô lý trong thời đại của chúng ta. (It is true, I deny an incomprehensible Trinity, and the fable regarding the fall of man, which is absurd in our day.) * Đúng vậy, tôi không chấp nhận cái chuyện có tính cách xúc phạm về một Thiên Chúa sinh ra từ một trinh nữ đề chuộc tội cho nhân loại (It is true, I deny the sacrilegious story of a God born of a virgin to redeem the race.)

42. Robert G. Ingersoll (1833-1899), Đại Tá, Luật Sư, Nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của Mỹ: * Tôi muốn gì cho ngày giáng sinh? Tôi bắt giáo hoàng phải vứt đi cái mũ ba tầng của ông ta, cởi bỏ bộ quần áo thiêng liêng của ông ta, và thừa nhận rằng ông ta không hành động cho Thiên Chúa - không phải là không thể sai lầm - mà chỉ là một người Ý thông thường. Tôi bắt tất cả những hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục thừa nhận rằng họ chẳng biết gì về thần học, về thiên đường hay hỏa ngục, về số phận tương lai của nhân loại, về quỷ hay hồn ma, về các thiên chúa hay thiên thần. Tôi muốn toàn thể thế giới không còn bất công, không còn mê tín (What I want for Christmas? I would have the pope throw away his tiara, take off his sacred vestments, and admit that he is not acting for god - is not infallible - but is just an ordinary Italian. I would have all the cardinals, archbishops, bishops, priests admit that they know nothing about theology, nothing about hell or heaven, nothing about the destiny of the human race, nothing about devils and ghosts, gods or angels. I would like to see the whole world free - free from injustice - free from superstition). * Một thầy giáo giỏi có giá trị hơn 1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.) * Trong nhiều thế kỷ, cây thập giá và lưỡi gươm là đồng minh của nhau. Cùng với nhau, chúng tấn công nhân quyền. Chúng chống đỡ cho nhau (For many centuries, the sword and the cross were allies. Together they attacked the rights of man. They defended each other.) * Nếu Ki Tô giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thiên chúa của Ki Tô giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô giáo hứa hẹn cho các tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki Tô Giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ. Nhưng Ki Tô giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn hiểm độc, không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thần của tôn giáo này không chỉ dốt nát mà còn ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (tín đồ hay không. TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thiên chúa và sẽ bị vĩnh viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo. (If Christianity were only stupid and unscientific, if its god were ignorant and kind, if it promised eternal joy to believers, and if the believers practiced the forgiveness they teach, for one I should let the faith alone. But there is another side to Christianity. It is not only stupid, but malicious. It is not only unscientific, but it is heartless. Its god is not only ignorant, but infinitely cruel. It not only promises the faithful an eternal reward, but declares that nearly all of the children of men, imprisoned in the dungeons of god will suffer eternal pain. This is the savagery of Christianity.)

43. Mark Twain (1835-1910), Văn hào Mỹ: * Đức tin là tin vào cái mà chúng ta biết nó không như vậy (Faith is believing what you know ain’t so). * Không phải là những phần trong thánh kinh mà tôi không hiểu làm tôi bực mình, mà là những phần mà tôi hiểu (It ain’t those parts of the Bible that I can’t understand that bother me, it is the parts that I do understand.)

44. John Burroughs (1837-1921), Văn hào Mỹ: * Khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của nền văn minh Tây phương trong 100 năm nhiều hơn là sự đóng góp của Ki Tô Giáo trong 1800 năm. (Science has done more for the development of Western civilization in 100 years than Christianity in 1800 years.) * Nền văn minh của chúng ta không được xây dựng trên Ki Tô Giáo mà là trên lý trí và khoa học (Our civilization is not founded upon Christianity; it is founded upon reason and science.) * Những người hoài nghi và những người không tin (Ki Tô giáo) không bao giờ có thể giết nhau như những tín đồ Ki Tô đã giết nhau (Skeptics and disbelievers could never slaughter each other as the Christians have.)

45. Friedrich Nietzche (1844-1900), Triết gia Đức: * Thượng đế đã chết (Có đâu để mà chết? TCN) God is dead. * Chúng ta không nên đi đến nhà thờ nếu chúng ta muốn hít thở không khí trong lành (One should not go to church if one wants to breathe pure air.)

46. Pierre Laplace (1749-1827), Khoa học gia Pháp: * Kính thiên văn đã quét hết vòm trời mà không thấy Thiên Chúa ở đâu. (The telescope sweeps the skies without finding god.)

47. Sir James Paget (1814-1899), Y sĩ Anh: * Nơi công cộng cũng như trong tư gia, tôi không biết một cuốn sách nào mà lại là nguồn gốc của cách xử sự hung ác và tàn bạo như là cuốn thánh kinh (I know of no book which has been a source of brutality and sadistic conduct, both public and private, that can compare with the Bible.)

48. Thomas Carlyle (1795-1881), Văn hào Anh: * Thiên chúa chẳng làm gì cả. Một người có giáo dục, lương thiện, không thể nào còn tin vào Ki-Tô giáo của lịch sử. (God does nothing. It is not possible that educated, honest men can even profess much longer to belief in historical Christianity.)

49. Alexandre Dumas (1802-1870), Văn hào Pháp: * Tín đồ Ca-Tô và Tin Lành, trong khi thiêu sống và giết lẫn nhau, có thể cộng tác để nô lệ hóa những ngưới anh em da đen của họ (Catholics and Protestants, while engaging in burning and murdering each other, could cooperate in enslaving their black brethen.)

50. Oliver Wendell Holmes, Sr. (1809-1894), Học giả Mỹ: * Người mà luôn luôn lo lắng rằng linh hồn mình sẽ bị đầy đọa thường là có một linh hồn không đáng gì cả (The man who is always worrying about whether or not his souls would be damned generally has a soul that isn’t worth a damn.) * Sự thật là cả hệ thống tín ngưỡng dựa trên chuyện sa ngã của con người đó đã dần biến mất đi trong đầu óc hiểu biết của con người đã được khai sáng (The truth is that the whole system of beliefs which comes in with the story of the fall of man is gently falling out of enlightened human intelligence.)

51. Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: * Khi anh bảo tôi rằng Thiên chúa của anh đã tạo ra anh theo hình ảnh của ông ấy, tôi trả lời rằng hắn ta phải thật là xấu xa (When you tell me that your deity made you in his own image, I reply that he must have been very ugly.) * Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.) .

52. Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: * Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên ông linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.) * Phải chăng khoa học đã thoái lui? Không phải! Chính Ca-Tô giáo đã luôn luôn phải thoái lui trước khoa học, và sẽ còn bị bắt buộc phải thoái lui (Has science ever retreated? No! It is Catholicism which has always retreated before her, and will always be forced to retreat.)

53. Mikhail A. Bakunin (1814-1876), Văn hào Nga: * Ki Tô giáo là sự từ bỏ hoàn toàn lẽ thường và lý trí (Christianity is the complete negation of common sense and sound reason.) * Thần học là khoa học về sự nói láo của thần thánh (Theology is the science of the divine lie.)

54. Ludwig Feuerbach (1804-1872), Triết gia Đức: * Bất cứ khi nào mà đạo đức được đặt căn bản trên thần học, quyền của con người tuỳ thuộc vào thần quyền, thì những sự vô đạo đức, bất công, ô nhục nhất có thể được biện minh và thiết lập (Whenever morality is based on theology, whenever right is made dependent on divine authority, the most immoral, unjust, infamous things can be justified and established.)

55. William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: * Hầu hết Âu châu, trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hoặc với sự hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền trong giới giáo sĩ (Almost all Europe, for many centuries, was inundated with blood, which was shed at the direct instigation or with the full approval of the ecclesiastical authorities). * Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Ca-Tô hay Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)

56. August Bebel (1840-1913), Nhà xã hội Đức: * Ki Tô giáo là kẻ thù của tự do và văn minh. Nó buộc nhân loại trong xiềng xích. (Christianity is the enemy of liberty and of civilization. It has kept mankind in chains.)

57. Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Ca-Tô, chỉ còn lại Vatican ngày nay): * Vatican là con dao găm đâm vào tim nước Ý. (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.) * Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.) * Giáo hội Ca-Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do (The Catholic Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.)

58. Elbert Hubbard (1856-1915), Văn hào Mỹ: * Thiên đường: Chỗ giải trí-nghĩ dưỡng trong trí tưởng tượng của người Ki-tô (Heaven: The Coney Island of the Christian imagination.) (Coney Island là một địa điểm nghỉ ngơi giải trí nổi tiếng ở New York)* Thiên chúa: John Doe (1 tên đặt cho một nhân vật mà không ai biết là ai) của triết lý và tôn giáo (God: The John Doe of philisophy and religion.) * Thần học là một sự toan tính giải thích một chủ đề bởi những người không hiểu về nó (Theology is an attempt to explain a subject by men who do not understand it).

59. Sigmund Freud (1856-1939), Nhà Phân tâm Áo: * Tôn giáo có thể so sánh được với chứng loạn thần kinh của trẻ con (Religion is comparable to a childhood neurosis.) * Giáo hội Ca-Tô cho đến nay vẫn là là đối thủ cứng rắn của mọi sự tự do tư tưởng (The Catholic Church so far has been the implacable enemy of all freedom of thought.)

60. George Bernard Shaw (1856-1950), Nhà viết kịch Anh: * Không phải là không tin thì nguy hiểm cho xã hội của chúng ta, mà chính là sự tin (It is not disbelief that is dangerous to our society, it is belief.) * Đối với tín đồ Ca-Tô, chỉ có hai quốc gia, thiên đường và hỏa ngục; chỉ có hai trạng thái của con người, cứu rỗi hay bị đày đọa (For the Catholic, there are but two countries, heaven and hell; but two conditions of men, salvation and damnation.)

61. George Santayana (1863-1952), Triết gia Mỹ: * Đối với Shakespeare, về vấn đề tôn giáo, sự chọn lựa nằm ở hoặc Ki Tô giáo hoặc không tin gì. Ông ta đã chọn không tin gì (For Shakespeare, in the matter of religion, the choice lay between Christianity and nothing. He chose nothing.) * Ki Tô giáo đàn áp tôn giáo, tra tấn và thiêu sống con người. Như một con chó săn, tôn giáo này đánh hơi và truy lùng dị giáo. Nó khích động chiến tranh, và nuôi dưỡng sự thù ghét mãnh liệt và tham vọng. Tôn giáo này thánh hóa sự tận diệt và sự chuyên chế (Christianity persecuted, tortured, and burned. Like a hound it tracked the very scent of heresy. It kindles wars, and nursed furious hatred and ambitions. It sanctified extermination and tyranny..)

62. Bertrand Russell (1872-1970), Triết gia, Nhà Toán học Anh, tác giả cuốn Why I Am Not A Christian: * Quan điểm của tôi về tôn giáo giống như quan điểm của Lucretius. Tôi coi nó như là một bệnh chứng xuất phát từ sự sợ hãi và là nguồn gốc của sự khổ sở không thể kể được của loài người (My own view on religion is that of Lucretius. I regard it as a disease born of fear and as a source of untold misery to the human race.) * Nếu tôi nhớ không lầm, không có một lời nào trong các Phúc Âm ca tụng sự hiểu biết (So far as I can remember, there is not one word in the gospels in praise of intelligence.) * Sự đàn áp được sử dụng trong thần học chứ không ở trong số học (Persecution is used in theology, not in arithmetic.)

63. Albert Einstein (1879-1955), Khoa học Gia Do Thái, Thuyết Tương Đối: * Tôi không thể quan niệm một Thiên Chúa thưởng phạt tạo vật của chính mình (I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures)

64. H. L. Mencken (1880-1956), Văn hào Mỹ: * Nói một cách đại cương, tôi tin rằng tôn giáo là một sự nguyền rủa đối với nhân loại (I believe that religion, generally speaking, has been a curse to mankind.) * Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) * Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng những lời không đáng để biết (Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.) * Tổng giám mục: một chức sắc Ki Tô cao chức hơn chức của Chúa Ki Tô (Archbishop: A Christian ecclesiastic of a rank superior to that attained by Christ.)

65. Alfred North Whitehead (1861-1947), Toán gia và Triết gia Mỹ: * Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại (I consider Christian theology to be one of the great disasters of the human race)..

66. Theodore Dreiser (1871-1945), Văn hào Mỹ: * Mọi hình thức của tôn giáo tín điều phải dẹp bỏ. Thế giới đã tồn tại mà không cần đến nó trong quá khứ và có thể cũng như vậy trong tương lai (All forms of dogmatic religion should go. The world did without them in the past and can do so again.)

67. Arthur Koestler (1905-1983), Triết gia Anh: * Tại Jerusalem, cái bộ mặt giận dữ của thần Gia-vê bao trùm những phiến đá nóng, những phiến đá đã chứng kiến những cuộc thánh sát, cưỡng hiếp, và cướp bóc nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Dân cư ở đây bị đầu độc bởi tôn giáo (In Jerusalem..the angry face of Yahweh is brooding over the hot rocks which have seen more holy murder, rape and plunder than any other place on earth. Its inhabitants are poisoned by religion.)

68. Edgar Lee Masters (1869-1950), Thi sĩ Mỹ: * Nhiều cuốn sách đã được viết ra để chứng tỏ Ki Tô giáo đã làm suy yếu thế giới, rằng nó đã gạt ra ngoài sự khai sáng và sự hiểu biết của Hellas để nhường chỗ cho một giáo lý mê tín và ngu xuẩn (Many books have been written to show that Christianity has emasculated the world, that it shoved aside the enlightenment and wisdom of Hellas for a doctrine of superstition and ignorance.)

69. George Moore (1852-1933), Tiểu thuyết gia Ái Nhĩ Lan: * Thiên đường có thể là cho những người thế tục, nhưng thế giới này chắc chắn là cho các linh mục (Heaven may be for the laity, but this world is certainly for the clergy.)

70. H. G. Wells (1866-1946), Tiểu thuyết gia Anh: * Cái đồ xấu ác nhất trong thế giới ngày nay là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most evil thing in the world today is the Roman Catholic Church.)

71. Culbert Olson, Thống đốc bang California, 1938-1943: * Tôi không hiểu làm sao mà người nào đọc thánh kinh mà lại có thể tin rằng đó là lời của Thiên chúa, hoặc tin đó không phải là chuyện man rợ của một dân tộc man rợ (I don’t see how anybody can read the Bible and believe it’s the word of God, or believe that it is anything but a barbarous story of a barbaric people.)

72. Preserved Smith (1880-1941), Sử gia Mỹ: * Không còn nghi ngờ gì nữa, cuốn thánh kinh là khối cản trở trên con đường tiến bộ, khoa học, xã hội và ngay cả đạo đức. Nó được viện dẫn để chống lại Copernicus (Thuyết trái đất quay xung quanh mặt trời. TCN) cũng như là chống Darwin (Thuyết Tiến Hóa. TCN) (There can be no doubt that the Bible became a stumbling -block in the path of progress, scientific, social and even moral. It was quoted against Copernicus as it was against Darwin.)

73. Isaac Asimov (1920-1992), Khoa học gia Mỹ: * Đối với tôi, Thiên Chúa có lẽ là một sản phẩm tùy tiện của tâm trí con người; Tôi chắc chắn không tin vào những huyền thoại, vào thiên đường và hỏa ngục, vào Thượng Đế và thiên thần, vào Sa-Tăng và quỉ... (It seems to me that God is a convenient invention of the human mind; I certainly don’t believe in the mythologies of our society, in heaven and hell, in God and angels, in Satan and demons..)

74. Steve Allen (1921 - ), Mỹ, tác giả 43 cuốn sách đủ loại: * Rất hiếm có một trang sách nào trong cuốn thánh kinh mà trong đó một người có đầu óc cởi mở không nhận thấy một sự mâu thuẫn, một chuyện lịch sử bất khả hữu, một sai lầm hiển nhiên, một sự kiện lịch sử không thể nào xảy ra (There is scarcely a page of the Bible on which an open mind does not perceive a contradiction, an unlikely history, an obvious error, an historical impossibility..); * Một người vô thần không ghét Thiên chúa, hắn chỉ không thể tin được là một Thiên chúa có thể hiện hữu. (An atheist does not hate God; he simply is one who is unable to believce that a God exist); * Cuốn thánh kinh đã được dùng để khuyến khích niềm tin vào sự mê tín thô thiển nhất và làm ngăn cản sự truyền bá những chân lý khoa học (The Bible has been used to encourage belief in the grossest superstition and to discourage the free teaching of scientific truths); * Chỉ sau khi tôi đọc cuốn thánh kinh từ đầu đến cuối tôi mới nhận ra rằng Thiên chúa được miêu tả trong đó thật sự là một bạo chúa thích trả thù, ác như quỷ, hơn xa sự khát máu và sự dã man điên rồ của sự tàn phá của những con người như Hitler, Stalin, Pol Pot, hoặc bất cứ kẻ sát nhân tập thể nào trong lịch sử cổ xưa hoặc hiện đại (It was only when I finally undertook to read the Bible through from beginning to end that I perceived that its depiction of the Lord God was actually that of a monstrous, vengeful tyrant, far exceeding in bloodthirstiness and insane savagery the depredations of Hitler, Stalin, Pol Pot, or any mass murderer of ancient or modern history.)

75. Carl Sagan, Khoa học gia rất nổi tiếng ở Mỹ: * Nếu các bạn muốn cứu con mình khỏi bị bệnh bại liệt, bạn có thể cầu Chúa hoặc mang nó đi chích ngừa.. Hãy chọn khoa học (If you want to save your child from polio, you can pray or you can inoculate.. Choose science)

76. Học giả LLoyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, trg. 455:

"Và ngày nay (Thời đại Trung Cổ. TCN) Ki Tô Giáo đã thiết lập vững chắc, chúng ta thấy gì? Thiên đường hạ giới? Trái lại, một sự suy thoái đạo đức và trí thức chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Theo Lecky thì "Hai thế kỷ sau thời Constantine là những thời kỳ mà các Cha Cố tượng trưng cho các thói xấu mang tai tiếng toàn diện." Và hai thế kỷ tiếp theo cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Giám mục Gregory ở thành Tours viết một bài tường thuật về những Cha Cố này và đó là một hình ảnh đen tối nhất của suốt dòng lịch sử. Về thế kỷ thứ 5, một linh mục sử gia, Salvianus, viết như sau: "Trừ một số rất nhỏ, còn toàn bộ Ki Tô giáo có gì khác hơn là một vũng lầy tội lỗi? Có bao nhiêu người trong giáo hội không phải là những kẻ say sưa hay loạn dâm, hay gian dâm, hay cờ bạc, hay ăn cướp, hay sát nhân - hay cùng lúc là tất cả?" Và chúng ta được bảo rằng Ki Tô Giáo nâng cao giống người, diệt trừ tội lỗi của người theo đa thần giáo và mở đườìng cho nền văn minh thực sự. Đây cũng là học thuật của Ca Tô Giáo."

(And now that Christianity is firmly established, what do we find? "The kingdom of heaven on earth?" On the contrary, a moral and intellectual degradation unparalleled in human history. According to Lecky, "The two centuries after Constantine are uniformly represented by the Fathers as periods of general and scandalous vice." And the following two were no better. Bishop Gregory of Tours wrote an account of them and it is one of the darkest pictures in all history. As for the fifth century, Salvianus, a priestly historian, had this to say: " Besides a very few who avoid evil, what is almost the whole body of Christians but a sink of iniquity? How many in the church will you find that are not drunkards or adulterers, or fornicators, or gamblers, or robbers, or murderers - or all together?" And we are told Christianity uplifted the race, rid the world of pagan sin and paved the way for true civilization. This too is Catholic scholarship)

77. Học Giả Ki-tô Jack Bays, The Gospel of Love, trg. 7:

"Đúng vậy, đó là những gì (thánh chiến, tòa án xử dị giáo, các cuộc tra tấn dã man v..v... TCN) mà giáo hội đã mang tới cho thế giới thay vì hòa bình và tình huynh đệ trong phúc âm của tình thương. Nó đã làm cho Ki Tô Giáo thành tôn giáo đẫm máu nhất đã làm đen tối mặt trái đất. Trong trăm năm qua, 90% các cuộc chiến tranh là những cuộc chiến tranh Ki Tô trong đó người Ki Tô giết người Ki Tô hay giết những người khác Ki Tô. Tất cả những vũ khí chiến tranh khủng khiếp, bom nguyên tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu v...v... đều là những phát minh của người Ki Tô, được chế tạo và dùng bởi những quốc gia Ki Tô. Trong cuộc chiến tranh nào cũng có những thầy giảng đạo, linh mục và mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và khuyến khích sự giết chóc cũng như là tên già độc ác Jehovah (Chúa Cha) đã làm đối với dân Do Thái, khi chúng tàn sát dân của vùng đất hứa, cướp bóc nhà cửa, của cải và cả con gái của họ."

(Yes, this is what the church brought upon the world instead of the peace and brotherhood of the gospel of love. It has made Christianity the bloodiest religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians or someone else. All the the hellish war machines; atomic bombs, poison gas, war planes, etc.., have been Christian inventions, made and used by Christian nations. In every war there have been preachers, priests and rabbis on each side praying and urging on the slaughter just as old brutal Jehovah did for the Israleites, while they massacreing the people of the promised land, to take their homes, their stock and their daughters.)

78. Chuyên Gia về Ca-tô Giáo Rô-ma Avro Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom, trg. 341-365:

" Ki Tô Giáo không bao giờ cùng nghĩa hay áp dụng những điều tôn giáo này rao truyền, nhất là khi đối với những sắc dân không theo Ki Tô Giáo. Những công vụ truyền đạo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo. Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm đạo quân tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến thắng của nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương - sự thành công thường thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi.

Những dân tộc chậm tiến nhưng có nền văn minh cao mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân."

"Christianity never meant or practised what it preached, particularly when dealing with non-Christian races. Christian missions were never solely Christian missions. They were invariably preceded, accompanied, or followed by Western warehouses, Western diplomacy, and Western armies. Whichever the sequence, the result was eternally the same: the partial or total loss of the regional, national, and racial liberty of the Asiatics, wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made their appearance. The voluntary or forced acceptance of both was proclaimed to be the victory of Christian civilization, and Christian civilization came to mean whatever tended to be dominant - in other words, whatever was Western - success very often depending on the appearance of naval squadrons off the coasts... Backward and highly civilized peoples lost their independence; their cultures were ridiculed, the color of their skin became a mark of opprobium; their past, present, and even potential future achievements were scorned and despised... This while, at the same time, Western religion preached universal brotherhood, Western democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality of all races...)

79. Học giả Ca-tô Joseph D. Daleiden, The Final Superstition, trg. 169:

"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở đầu, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này."

(In summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in both the Old World and the New was due in large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history, from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition, and repression of other cultures throughout the world, Christianity has demonstrated its destructive antihuman values.)

80. Tiến sĩ Madalyn O'hair, All The Questions You Ever Wanted To Ask American Atheists, Back cover :

"Cái tiền đề căn bản của Ki Tô Giáo là sự bất khoan nhượng. Tín đồ Ki Tô không thể chỉ theo tín ngưỡng của mình và để cho mọi người khác theo tín ngưỡng của họ. Giê Su Ki Tô đòi hỏi rằng các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo người khác (nghĩa là muốn cho mọi người đều phải tin vào Giê-su) và điều này đã gây nên nhiều sự đau khổ cho nhân loại hơn bất cứ tôn giáo nào khác. Những vị Thần của tôn giáo đa thần sống hòa bình với nhau. Nhưng khi Ki Tô Giáo xuất hiện với tính chất riêng biệt độc nhất của nó, dựa trên điều răn thứ nhất của 10 điều răn, "Ngươi không được thờ Thần nào khác", thì sự giết chóc bắt đầu'

(The basic premise of Christianity is intolerance. The Christian cannot just have his belief and permit everyone else to have theirs. Jesus Christ demanded that the Christian convert and this has caused more grief to mankind than any other religion. The old pagan gods lived side by side. But when Christianity came with its exclusivism, based on the first of the Ten Commandments, "Thou shalt have no other God before me," the killing began)

81. Mục sư Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, trg. 18:

"Ki Tô Giáo đã để lại một dấu vết kinh hoàng, khổ sở và chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm máu. Và những hiện tượng tàn ác, lố bịch trong sử sách là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn, đã được gây ra dưới cái ảo tưởng (đôi khi là cái cớ): đó là sự hướng dẫn của Thượng đế."

(Christianity has left an appalling trail of misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And the cruel, grotesque events they record are prime examples of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometimes pretext) of divine guidance.)

Trên đây chỉ là nhận định về Ki Tô Giáo và Thiên Chúa của một một số nhỏ trong số hàng trăm danh nhân trên thế giới mà vì một lý do hiển nhiên, tôi không thể liệt kê hết ra đây. Chúng ta nên để ý rằng tất cả những nhân vật mà tôi dẫn chứng ở trên đều sinh ra và trưởng thành trong những xã hội Ki Tô nói chung, Ca Tô nói riêng, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Ki Tô, và chính họ là những người biết rõ thực chất của Ki Tô Giáo hơn ai hết. Họ là những hạng người nào, địa vị và uy tín của họ ra sao, họ đã có những đóng góp gì cho nhân loại v..v..? Tên tuổi của họ và những đóng góp văn hóa của họ, được biết rộng rãi trong giới hiểu biết trên khắp thế giới, tưởng cũng là một bảo đảm cho giá trị nhận định của họ mà ít người dám lên tiếng phản bác.

Những nhận định về Ki Tô Giáo của những nhân vật nổi danh thế giới như trên hiển nhiên làm cho chúng ta thắc mắc. Vì lẽ gì mà họ đều có những nhận định không mấy tốt đẹp về Ki Tô Giáo? Phải chăng họ là những người ngoại đạo? Không phải. Phải chăng họ là những người lạc đạo? Không phải. Phải chăng họ là những người đầu óc kém cỏi, không nhận ra được những cái hay cái đẹp của Ki Tô Giáo theo như những lời tự nhận của các giáo hội Ki Tô? Cũng không phải. Đó là những người có đầu óc khai phóng nhất, thông thái nhất, và lương thiện nhất trong những tư tưởng của họ, và đã góp phần khai sáng nhân loại không ít.

Một thắc mắc lớn là, tại sao một tôn giáo thường tự nhận là ánh sáng của nhân loại, là tình thương của Thượng Đế, là dân chủ, là đạo đức, bác ái v..v.. mà lại có thể có một lịch sử đen tối như vậy, theo những nhận định như trên? Ngày nay, phần lớn những nhà khảo cứu về tôn giáo đã đồng ý rằng: những lời tự nhận như trên của Ki-tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo Rô-ma, thường được giới trí thức biết dưới danh từ "học thuật Ca Tô" (Catholic scholarship), không dựa trên sự thực và chỉ là những lời hoa mỹ với mục đích lạc dẫn đám tín đồ kém hiểu biết, của hàng Giáo Phẩm: Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh Mục, để duy trì quyền lợi thế tục và giữ tín đồ, và rằng, cái lịch sử đen tối của giáo hội không phải là do vài cá nhân làm sai ý Chúa mà chính là đường lối của Giáo hội, bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối một cách mù quáng vào Thánh Kinh. Một vấn đề được đặt ra là: những nhận định về Ki Tô Giáo như trên đúng hay sai, có bao nhiêu phần xác thực trong đó? Tính cách xác thực của những nhận định về Ki Tô Giáo như trên sẽ được chứng minh trong các chương sau, qua sự khảo sát lịch sử Ki Tô Giáo trong 2000 năm qua, qua sự phân tích Thánh Kinh, và qua những gì mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng.