Đến giữa tháng 9 thì người Mỹ sốt ruột lắm rồi. Về chiến sự, Ấp Chiến Lược mà ông Nhu giương cao thành tích như thành công vĩ đại của chế độ và của chính ông bị báo chí Mỹ khám phá ra những sơ hở trầm trọng (36). Về chính trị, thiết quân luật không dẹp nổi sự chống đối của dân chúng, thành phố hỗn loạn đến mức nhân viên công sở chỉ còn ngồi đọc báo. Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần nói nhỏ với Mỹ là muốn chuồn ra ngoại quốc (37). Kennedy gởi chính những người ủng hộ ông Diệm qua điều tra tình hình lần chót cuối tháng 9 với sự đồng ý của Lodge. Tường trình lần này của phái đoàn McNamara-Taylor hết hồ hởi, gần với thực tế bi đát (38). Thú vị nhất là lần nói chuyện với Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ngày 30-9. Ông Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa thổ lộ : tình hình đã quá trầm trọng, dân chúng đã quá bất mãn, ở thành phố cũng như ở thôn quê. Hỏi ông về chính sách tát ao bắt cá của Ấp Chiến Lược, ông nói : ban đêm dân chúng vào ngủ trong Ấp, ban ngày, ngủ hoài sao được, phải ra đồng làm việc chứ, và ra đồng thì gặp ai, Việt Cộng chứ ai ! Hỏi ông về chiến sự, ông cười : hai năm trước đây, người Mỹ các ông ước tính quân đội Việt Cộng có từ 20 đến 30.000 đầu. Ông Diệm được báo cáo rằng mỗi tháng ta giết 1000 tên. Ấy thế mà bây giờ chúng đông hơn trước ! Hỏi ông có người Việt Nam nào giỏi để tham khảo ý kiến không, ông lắc đầu : người giỏi trốn ra nước ngoài hết rồi. Hỏi ông thêm nữa về chính trị, ông xua tay : tôi không có tự do để nói thêm gì nữa với quý ông (39). Ấy, ông Phó Tổng thống tếu quá !
Phái đoàn McNamara-Taylor mang theo một thư của Kennedy gởi ông Diệm. Thư bắt đầu : "Thưa Tổng Thống thân mến, Tôi gởi đến ông thư này bởi vì tình hình bang giao giữa hai nước chúng ta đã trở nên vô cùng trầm trọng ..." (40). Dưới ảnh hưởng của Lodge, người thấy rõ nhất tính chất độc tài không thay đổi được của gia đình ông Diệm, đầu não ở Hoa Thịnh Đốn dần dần ngã theo ý kiến "không thể thắng được với Diệm". Hilsman, từ Bộ Ngoại giao, gởi thư riêng cho Lodge, viết : " Chúng tôi đã cảm thấy rằng càng ngày quan điểm của chúng ta càng có nhiều người ủng hộ. Nếu anh ở Sài Gòn và chúng tôi ở đây giữ vững tay súng, mọi người sẽ theo chúng ta. Như Forrestal sẽ nói với anh, một nhóm người quyết tâm ở đây sẽ ủng hộ anh đi trọn con đường. Tôi nghĩ rằng chắc là anh có lý khi phán đoán rằng không có áp lực nào - kể cả cúp viện trợ - có thể làm Diệm và Nhu thay đổi chế độ như ta muốn, và vì vậy điều chúng ta phải làm là thay đổi chính phủ" (41). Ông Diệm đánh chùa, thiết quân luật, cử Tôn Thất Đính làm tướng tổng trấn Sài Gòn, tưởng khuất phục được dân với uy lực. Đính là bộ hạ của ông Nhu, vậy là ông Nhu làm chủ tình thế. Với Mỹ và với dân, cả hai ông đều lếu, lếu quá, vì bỗng chốc quân đội, nghĩa là tướng tá, hôm qua còn phủ phục, hôm nay nhảy lên địa vị trọng tài. Đảo chánh trở thành chuyện có thể. Hơn thế nữa, chuyện chờ đợi, mong mỏi, nôn nóng, hợp lòng người, được lòng dân.
Nhưng không phải dễ gì Lodge thuyết phục được tất cả mọi người. Harkins luôn luôn thọc gậy vào bánh xe của ông : một ngày trước khi đảo chánh, ông tướng này còn viết một công văn rất dài, cực lực bênh vực ông Diệm, kịch liệt phản đối việc "thay ngựa giữa đường" (42). Công điện của Bạch Ốc đánh đi ngày 17-9 căn dặn Lodge đừng "hành động để thay đổi chính phủ hiện tại trong những ngày trước mắt" (43). Ngày 2-10, công văn của McNamara-Taylor vẫn nói :"triễn vọng một đảo chánh tự phát không nhiều. Hai lực lượng chính là tướng tá và sinh viên đã bị thúc thủ vì thiếu khả năng và vì chế độ đã phản công kiểm soát một cách hiệu quả". Mà đảo chánh thì cũng chưa chắc làm tình hình sáng sủa hơn, cũng chỉ 50 phần trăm, 50 phần trăm (44). Ngày 29-10, hai ngày trước đảo chánh, bộ trưởng ngoại giao Rusk còn luẩn quẩn tóm tắt tình hình như thế này :"Nếu ta ủng hộ Diệm, ta sẽ làm hỏng cố gắng chiến tranh bởi vì ta chống lại các tướng lãnh đang chiến đấu chống Việt Cộng. Nếu ta ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh thì ta phải bảo đảm rằng họ thành công trong việc lật đổ Diệm" (45). Nhưng khả năng thành công là bao nhiêu ? Nghe báo cáo từ mọi phía, Kennedy phán : như vậy thì lực lượng hai bên ngang ngửa nhau. "Trong tình trạng như vậy, làm đảo chánh là ngu xuẩn. Nếu Lodge đồng ý với nhận định đó, phải ra chỉ thị bảo Lodge chận đảo chánh" (46). Ông nói thêm : "những người làm đảo chánh phải chứng minh được rằng họ có thể lật đổ Diệm chứ không phải tạo ra một tình thế bất phân thắng bại" (47).
Khốn thay, trong một chế độ mà mọi người nghi mọi người, không ai làm đảo chánh mà tự hô hoán lên lạy ông tôi ở bụi này. Cũng không ai làm đảo chánh ở Sài Gòn mà không muốn được Mỹ hứa chắc là sẽ không chống. Nghĩa là cái vòng luẩn quẩn : Mỹ bảo phải có khả năng thành công thì mới ủng hộ ; những người định đảo chánh thì cần Mỹ ủng hộ mới thành công. Mỹ hỏi tướng Đôn : ông định làm đảo chánh đấy à, ông làm với ai, chương trình vạch ra thế nào, đưa tôi xem thử có thành công không. Cho kẹo tướng Đôn cũng chẳng dám vạch bụng cho người xem lỗ rốn. Hoặc là ông nói thế này với Harkins, nói thế kia với CIA. Mỹ dơi chuột với ông thì ông cũng dơi chuột với Mỹ. Rốt cục : 50 phần trăm từ miệng Bạch Ốc.
Một ngày trước đảo chánh, Bundy ở Bạch Ốc còn chỉ thị cho Lodge thế này : "Ta không thể chấp nhận như một căn bản của chính sách Hoa Kỳ rằng ta không có quyền lực để làm trì hoãn hoặc ngăn chận một đảo chánh ... [Bởi vậy] ông phải hành động để thuyết phục những người đảo chánh hãy chấm dứt hoặc hoãn lại mọi chiến dịch mà ông nhận xét tường tận là rõ ràng không có triễn vọng thành công cao ... Các cơ quan của Hoa Kỳ sẽ từ khước mọi lời kêu gọi can thiệp trực tiếp từ phe này hay phe kia ... Hoa Kỳ không có lợi gì làm khí cụ cho chính phủ hiện tại hoặc cho đảo chánh ... " Như vậy là cánh Harkins thỏa mãn. 50 phần trăm đấy, nhưng có phần nghiêng về nửa vơi, không phải thiên vị nửa đầy. Nhưng Bundy chỉ thị thêm : "Nhưng khi một cú đảo chánh có chỉ đạo tốt đã bắt đầu, và trong những hạn chế vừa nói, Hoa Kỳ có lợi ích thấy nó thành công" (48).
Cùng một chỉ thị, nhưng Harkins diễn dịch khác Lodge. Ông nhấn mạnh ở điểm ngăn chận. Cho nên ông đã ngăn chận tướng Đôn. Ông Đôn chẳng hiểu Mỹ muốn gì, bởi vì tín hiệu của Conein, sếp CIA, khác hẳn với cảnh cáo của Harkins, khác hẳn với thái độ của Lodge. Về đảo chánh, Lodge nói rõ với Bộ Ngoại giao : "Ta phải nhớ rằng đó là cách duy nhất để dân chúng Việt Nam có thể thay đổi chế độ" (49). Ông nói thêm : vả chăng, tình trạng đưa đến đảo chánh đang diễn tiến như hòn đá đang lăn (50), chận cũng không được. Nhưng chỉ thị không cho phép Lodge chính thức bật đèn xanh. Chỉ dặn : phải thuyết phục và làm áp lực trên Diệm.
Aùp lực là thế nào ? Cắt viện trợ ? Viện trợ gì ? Cắt viện trợ gì mà không gây ảnh hưởng trên cố gắng chiến tranh ? Buộc ông Diệm phải gánh trên vai của chính ông gánh nặng của ngân khoản dành cho Ấp Chiến Lược ? Cắt viện trợ nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng ? Chừng nào thì vừa đủ để gây áp lực ? Vừa đủ để đừng có hại cho chiến tranh ? Vừa đủ để chứng tỏ với những Fullbright, những Mansfield, với Liên Hợp Quốc, với dư luận Mỹ đang chấn động vì ngọn lửa Quảng Đức, vì lựu đạn cay, vì dùi cui đốp đốp trên đầu sinh viên, rằng chính quyền Kennedy không dung túng độc tài ? Cúp viện trợ trên cơ sở gì ? Chỉ thị của Kennedy đáng được trí thức chiêm nghiệm : "Tổng thống muốn rằng cơ sở để xây dựng chính sách của ta là chỉ trích hành động chính trị của Diệm có hại cho cố gắng thắng Việt Cộng chứ không phải chỉ trích Diệm vì ta chống chế độ của ông ấy trên mặt đạo đức" (51).
Trên cơ sở đó, các tướng đảo chánh củng cố tính chính đáng của họ trước mắt các giới chức Mỹ dù là - hoặc nhất là - quân sự : không thể thắng chiến tranh được với chế độ này. Lý lẽ của họ vừa có tính chính đáng vừa có tính thuyết phục, vì họ là quân nhân, không phải chính trị gia. Họ chỉ chờ chiêu dụ cho được ông tổng trấn Đính hám danh đang nắm thực quyền trên Sài Gòn. Đính ngã rồi, thời cơ về tay phe đảo chánh. Đánh giá đúng thời cơ, Lodge thuyết phục được Hoa Thịnh Đốn cắt viện trợ cho Lực Lượng Đặc Biệt đã đánh chùa - lực lượng của Lê Quang Tung - lấy lý do rằng lực lượng đó chỉ biết đánh sư sãi và sinh viên chứ chưa đánh Việt Cộng ngày nào. Biện pháp đó hoàn toàn trung thành với chỉ thị của Kennedy, nhưng tác dụng trên quần chúng miền Nam quả là to lớn : trong đêm tối của khủng bố, họ tưởng đã thấy tín hiệu đèn xanh của Mỹ.
Đảo chánh nổ ra chiều 1-11. Hầu hết tướng tá và binh chủng đều tham gia đảo chánh. Nhanh chóng, cả Sài Gòn ngã vào tay phe nổi dậy. Nhanh chóng, Dinh ông Diệm bị bao vây. Harkins tường trình : "Cho đến phút cuối, ông Diệm vẫn cứng đầu ; khi Đính, với tư cách chỉ huy chiến thuật, gọi điện thoại cho ông Diệm lúc 00600 giờ, ông Diệm ra lệnh cho phe đảo chánh phải đầu hàng tức khắc" (52). Ông Diệm đã ra những lệnh như vậy suốt chín năm cầm quyền.
Ngày 1-11-1963 là một ngày hồ hởi của dân chúng, một ngày giải phóng (53). Đối với lịch sử, lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, 1963 là năm bùng lên ngọn lửa, một sự kiện phi thường làm chấn động lương tri. Đối với Phật giáo, 1963 là trái tim, trái tim còn nguyên, không cháy, khi nhục thân Quảng Đức thành tro. Trái tim đó không nói hận thù. Không nói winning the war. Nên nhắc lại điều đó để hiểu 1964, 1965 và về sau, để hiểu sự chống đối của các lực lượng chiến tranh đối với một phong trào không nói : winning the war.
Chú thích :
(1) Leszek Kolakowski, Totalitarism and the Lie, Commentary, tháng 5 1983, in lại trong Irving Howe (ed) 1984 Revisited Totalitarism in our Century, Harper & Row, New York, 1983.
(2) Ghi chú (memorandum) của Mecklin, cố vấn Đại sứ quán gởi Manell, cố vấn Vụ Viễn Đông, Bộ Ngoại giao, 15-3-1963, Hồ Sơ Bộ Ngoại giao, Tập III.
(3) Công điện của Bộ Ngoại Giao (BNG) gởi Đại sứ quán (Nolting) 25-2-1963, Tập III.
(4) Xem chú thích (2).
(5) Nolting gởi BNG 5-4-1963, Tập III.
(6) Ví dụ : Ghi chú của phái đoàn Taylor-McNamara gởi Kennedy 2-10-1963, mụcVIII, điểm B, chú thích 4 ; ghi chú của Sullivan, Vụ trưởng phụ trách Vụ chính trị BNG gởi Hilsman, thứ trưởng ngoại giao phụ trách Vụ Viễn Đông 3-10-1963 ; hai công điện của Cabot Lodge gởi BNG 28-10-1963, 6 giờ chiều và 9 giờ chiều, Tập IV.
(7) Ghi chú của Forrestal, Hội đồng An ninh Quốc gia, gởi Harriman, thứ trưởng ngoại giao, phụ trách Vu Viễn Đông, 8-3-1963, Tập III.
(8) Nolting gởi BNG 7-9-1963, Tập III.
(9) Ghi chú gởi Nolting và Harkins 3-5-1963, Tập III.
(10) Công điện Nolting gởi BNG 7-4-1963, Tập III.
(11) Phúc trình CIA Washington 22-4-1963, Tập III.
(12) BNG gởi Nolting 29-3-1963, Tập III.
(13) Ghi chú của Forrestal gởi Harriman 8-2-1963, Tập III.
(14) Ghi chú của Bowles gởi Kennedy 7-3-1963, Tập III.
(15) Ghi chú của CIA Washington 3-6-1963, Tập III.
(16) BNG gởi Trueheart (tạm giữ trách nhiệm ĐSQ thay Nolting về nghỉ phép từ 24-5 đến 11-7) 11-6-1963, Tập III.
(17) Phúc trình của tướng Krulak 10-9-1963 ; ghi chú của Mecklin 10-9-1963, Tập IV.
(18) Ghi chú của Forrestal gởi Kennedy 10-5-1963, Tập III.
(19) Ghi chú buổi nói chuyện, Washington, 10 giờ 30 sáng, Tập IV. Kể từ đây là Tập IV.
(20) Công điện CIA Sài Gòn 2-9-1963.
(21) và (22) Công điện CIA Sài Gòn 17-9-1963.
(23) và (24) Phúc trình của McNamara từ Sài Gòn 26-9-1963.
(25) Ghi chú soạn thảo cho Giám đốc CIA McCone, Washington, 26-9-1963.
(26) Ví dụ: Lodge gởi BNG 10-10-1963.
(27) Ghi chú của Mansfield gởi Kennedy 19-8-1963.
(28) Ghi chú buổi nói chuyện, Washington, 11-9-1963, 6 giờ chiều.
(29) BNG gởi Lodge (đại sứ mới, thay Nolting) 12-9-1963.
(30) BNG gởi Lodge 18-9-1963 ; BNG gởi Phái đoàn Mỹ tại LHQ 1-10-1963.
(31) Lodge gởi BNG 24-8-1963.
(32) Harriman, Hilsman, Sullivan ở BộNgoại giao, Forrestal ở HĐANQG Tòa Bạch Ốc, Bundy là Phụ tá đặc biệt của Tổng thống.
(33) Ghi chú của Forrestal gởi Bundy 16-9-1963.
(34) Xem chứng từ của tướng Đôn trong công điện CIA Sài Gòn 24-8-1963, Tập III.
(35) Ghi chú buổi nói chuyện 29-9-1963.
(36) Bài báo của Halberstam trong New York Times 16-9-1963 đến tay Kennedy. Kennedy hỏi: đúng hay sai?
(37) Lodge gởi BNG 19-9-1963.
(38) Phúc trình McNamara, Sài Gòn, không đề ngày, tiếp theo sau công điện của Lodge 27-9-1963.
(39) Lodge gởi BNG 30-9-1963.
(40) BNG gởi Lodge 24-9-1963.
(41) Hilsman gởi Lodge 23-9-1963.
(42) Harkins gởi Taylor 30-10-1963.
(43) Xem công điện 17-9.
(44) Ghi chú Taylor-McNamara gởi Tổng thống, Washington 2-10-1963.
(45) Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 4 giờ20 chiều.
(46) như trên
(47) Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 6 giờ chiều.
(48) Bundy gởi Lodge 30-10-1963.
(49) Lodge gởi Bundy 25-10-1963.
(50) Ghi chú buổi họp với Kennedy 29-10-1963 lúc 6 giờ chiều.
(51) Tóm tắt ghi âm buổi họp thứ 519 của HĐANQG 2-10-1963.
(52) Harkins gởi Taylor 2-11-1963 lúc 10 giờ 42 sáng.
(53) Theo công điện số 2324 đánh đi từ Paris ngày 13-11-1963 thì Tổng Đại Diện Pháp tại Hà Nội De Buzon vừa gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng ; Thủ tướng n&oac
No comments:
Post a Comment