Sunday, April 6, 2008

Cuộc chiến 30 năm qua góc nhìn của VVAW

VVAW là viết tắt của Vietnam Veteran Against the War, một tổ chức như tên gọi là của những cựu chiến binh chống chiến tranh. Tổ chức này được thành lập tại thành phố New York năm 1967, hai năm sau khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên cảng Đà Nẵng. Khởi đầu với sáu thành viên, tổ chức này đã nhanh chóng lớn mạnh với số thành viên lên đến 30,000 người trong thập niên 1970. Đây là tiếng nói của những người Mỹ có lương tâm. Họ đã góp phần chấm dứt cuộc chiến phi nhân phi nghĩa của chính quyền Mỹ. Họ là những người bạn của nhân dân Việt Nam.

Dưi đây là tóm lưc về cuộc chiến Việt Nam dưi góc nhìn của tổ chc trên. Tôi nghĩ tất cả nhng ai có đầu óc suy nghĩ khách quan đều có thể nhận ra rng đó là cuộc chiến giành độc lập và thống nhất đất nưc của nhân dân Việt Nam chống lại hai lc lưng đế quốc cản tr s nghiệp đó.

Cả nhng ngưi Mỹ cũng có thể nhận ra rõ ràng điều đó, nên họ đã không muốn nhúng tay vào cuộc chiến bẩn thỉu đó để làm giàu cho một số công ty trục li nh chiến tranh.

Chúng ta để ý, trong giai đoạn Nhật chiếm Việt Nam. Nhật và Pháp bt tay nhau để cai trị ngưi Việt Nam, số ngưi Việt phục vụ cho Pháp thì cũng phục vụ cho Nhật. Việt Minh cùng vi Mỹ chống Nhật.

Nhưng khi Thế Chiến II kết thúc, Mỹ đã vt chanh bỏ vỏ. Coi ngưi Việt là th nô lệ nên đã ủng hộ Pháp tr lại, bất kể các li tuyên bố và Hiến Chương Quốc Tế. Nhng ngưi Việt làm tay sai cho Pháp và Nhật, kẻ thù ngày xưa của Mỹ, lại tiếp tục theo Mỹ khi Pháp thua. Điều này có nghĩa là có loại ngưi Việt Nam thà cho bất c nưc ngoài nào vào nm đầu ch nhất định không để ngưi Việt Nam nm đầu họ.

Nhng kẻ có đầu óc thích làm nô lệ ngoại bang này sẽ sn sàng làm bất c chuyện gì để làm giàu, ngay cả chống lại nguyện vọng độc lập của cả dân tộc.

Qua bài tóm lược này, nói chung chúng ta thấy không thể gọi là nội chiến hay cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc được vì chúng ta phải kể đến hai lực lượng chính đối đầu với nhau. Hai lực lượng chính là nguyên nhân tạo ra cuộc chiến. Đó là đại đa số nhân dân chống lại sự xâm lược của Pháp và Mỹ.

Chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị động và không có thực lực vì họ không có được sự ủng hộ của dân, họ do quân xâm lược nước ngoài đẻ ra và nuôi dưỡng chỉ với mục đích hợp thức hóa sự xâm lược và can thiệp của nước ngoài. Họ chỉ muốn tiền, không muốn đánh nhau. Không có quân xâm lược thì không có họ.

Dưới đây là bản đồ miền Nam năm 1966, nói về diện tích thì Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam kiểm soát nhiều hơn Mỹ và chính quyền Ngụy, và cuộc chiến giành giật đất đai là diễn ra ở đây chứ không phải giữa hai miền Nam Bắc, nên không thể gọi là cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc được. Và không có Mỹ ở đó thì chính quyền Ngụy không qua nổi một con trăng! Cho nên Mỹ là vai chính, và nếu Mỹ là vai chính thì không thể gọi là "nội" chiến được.

---------------------------------------------------------

Lược dịch:

Hơn bất cứ cuộc chiến nào kể từ cuộc Nội Chiến, Việt Nam đã chia rẽ đất nước chúng ta và bắt buộc chúng ta đánh giá lại xã hội này. Tiền bạc, bom đạn, và người được cho vào cái máy xay thịt mà mục đích dường như được thay đổi mỗi lần có một cuộc họp báo của Tổng Thống.

Nước Mỹ dính dáng tới Việt Nam không phải bắt đầu từ thập niên 60, hay 40, mà từ năm 1845. Vào năm đó người Đà Nẵng bắt giữ một giám mục người Pháp vì phạm luật địa phương. Chỉ huy của tàu chiến "Old Ironsides" (U.S.S Constitution) đã cho Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ để giúp đỡ người Pháp giải thoát nhà truyền giáo đó. Mad Jack Percival, thuyền trưởng của tàu, đã nã pháo vào thành phố Đà Nẵng, giết chết hơn 30 người Việt Nam, làm bị thương một số khác, và bắt vài quan lại địa phương làm con tin. Sau đó ông ta đòi trả tự do cho Giám Mục Công Giáo đó để đổi lấy con tin. Người Việt Nam không nao núng. Họ từ chối và chờ đợi. "Mad Jack" mệt mỏi vì chờ đợi, đã thả con tin ra, và giong buồm đi, bỏ lại Giám mục đó. 130 năm sau, người Mỹ cũng cảm thấy mệt mỏi và phải rời bỏ Việt Nam. Đáng tiếc là lần này chúng ta đã bỏ lại không chỉ là hơn 30 mạng người.

Thời Thế Chiến II, người Việt là đồng minh của chúng ta. Một nhóm nhân viên OSS (sau này là CIA) đã tiếp xúc với những nhóm du kích chống Nhật ở Đông Nam Á. Người Pháp cầm quyền lúc đó bắt tay với Nhật. Trong những nhóm người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, chỉ có Việt Minh của Hồ Chí Minh là có một mạng lưới những tổ chức du kích bí mật chống Nhật.

Hồ Chí Minh và người Mỹ đã hợp tác chống Nhật. Năm 1945, khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời với chủ tịch đầu tiên là Hồ Chí Minh, máy bay Mỹ đã bay ngang qua bầu trời Hà Nội để chúc mừng sự kiện này. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam có những dòng trích từ Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ.

Hồ Chí Minh yêu cầu Mỹ thực hiện cam kết về độc lập cho thuộc địa, nhắc đến Hiến Chương Đại Tây Dương và Hiến Chương LHQ về quyền tự quyết. Tuy nhiên, đến cuối cuộc chiến, chính quyền Mỹ đã thay đổi chính sách từ mục tiêu giải phóng thuộc địa trở thành một cuộc thánh chiến chống cộng

, trở thành Chiến Tranh Lạnh.

Ở Pháp, nơi lực lượng cộng sản đã lãnh đạo cuộc chiến chống Đức Quốc Xã, Mỹ đã chọn chính sách ủng hộ Tướng Charles de Gaulle và "nước Pháp Tự Do" chống cộng của ông ta. De Gaulle nhắm tới việc phục hồi hào quang của nước Pháp, có nghĩa là lấy lại toàn bộ những thuộc địa trước kia của Pháp. Quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam từ đó trở thành khó khăn. Tổng Thống Truman từ chối nhiều lá thư và điện tín từ ông Hồ. Thay vào đó, Mỹ bắt đầu vận chuyển viện trợ quân sự cho lực lượng quân sự Pháp ở Đông Dương.

Người Pháp trở lại thuộc địa cũ của họ không phải dễ dàng. Trước tiên, họ phải dùng tù binh Nhật để tạo một bàn đạp. Họ chỉ lấy lại được thành phố, thị trấn. Năm 1950, Tướng Giáp thắng trận, 6.000 quân Pháp bị tiêu diệt hoặc bị bắt. 1954, Pháp bị thất trận ở Điện Biên Phủ.

Theo thỏa thuận đa quốc gia, Việt Nam được tạm thời chia làm hai phần, với tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức trên cả nước năm 1956. Ngay cả trước khi Pháp rút đi, Mỹ đã nhảy vào.

Trước ngày thất bại ở Điện Biên Phủ của Pháp, Mỹ đã tổ chức MAAG (Military Assistance and Advisory Group) bao gồm 350 nhân viên Mỹ làm việc ở Saigon phục vụ người Pháp. Giữa 1950 và 1954, Mỹ đã đóng góp trên 3 tỉ để giúp đỡ đồng minh Pháp trong cuộc chiến giành Việt Nam. Đến 1954, đóng góp của Mỹ đã lên đến 80% chiến phí. Tổ chức MAGG bắt đầu huấn luyện lực lượng người Việt "quốc gia" lên đến con số 250.000 người. Lực lượng này phần lớn bao gồm những người Việt đã chiến đấu cho Pháp.

Cựu hoàng Bảo Đại chỉ định Ngô Đình Diệm, một người Công Giáo Việt Nam, làm Thủ Tướng. Mặc dù Việt Nam là một nước đại đa số theo Phật Giáo, ông Diệm đã sớm được xem là lãnh đạo tương lai của Việt Nam bởi CIA và những nhóm tư lợi khác ở Mỹ. Theo lời của Tổng Thống Eisenhower, "Có thể đến 80% dân số sẽ bầu cho ông Hồ Chí Minh hơn là cho Bảo Đại.

Sự can thiệp của Mỹ tiếp tục với tiền bạc và nhân sự. Hiện diện của Mỹ tăng lên 500 dưới thời Eisenhower và 15.000 dưới thời Kennedy. Nhưng ông Diệm tiếp tục gặp khó khăn: cán bộ Việt Minh đã giúp đỡ hỗ trợ một số nhóm chống lại ông Diệm và thế lực thay thế Pháp -- người Mỹ. Sự giống nhau giữa Pháp và Mỹ ở Việt Nam, theo cách nhìn của người Việt Nam, không chỉ dừng lại ở chỗ cả hai đều là những kẻ ngoại bang áp bức, mà ngay cả đến quân phục của chúng ta, cả chiếc nón beret, cũng giống nhau. Trên thực tế, quân Mỹ được coi là "người Pháp có tiền."

Bất ổn bởi Phật Giáo tăng lên trong thành phố. Ở vùng quê, MTDTGPMN (National Liberation Front - NLF), giết những tay chân của ông Diệm và thâu tóm quyền lực. Mỹ quyết định hỗ trợ lật đổ ông Diệm. Không những các tướng tá đã lật đổ Diệm mà còn còn giết chết ông ta; sau đó họ tiếp tục lật đổ nhau liên tục và thường xuyên.

Tình hình trở nên tuyệt vọng. Ngày càng nhiều lính Mỹ được đưa vào để thay thế quân đội Sài Gòn vì họ không thể và không muốn tham gia vào việc tác chiến. Chính quyền Sài Gòn không có chỗ dựa thật sự nào ngoài viện trợ từ Mỹ, và chúng ta nhận được đúng những gì chúng ta đã trả giá, đó là: ma cô, đĩ điếm, những kẻ hèn nhát, dưới cái mặt nạ chính quyền và quân đội.

Như vậy đã là tệ, nhưng song song đó là sự ngạo mạn của chính quyền và lãnh đạo quân sự Mỹ. Họ không tin là ngýời Á Châu có thể đứng lên đối diện với sức mạnh và kỹ thuật của Mỹ. Trong khi cuộc chiến đang diễn ra, chúng ta đi từ giai đoạn này tới giai đoạn khác mà không có thay đổi thực sự nào cho tình hình. Chương trình ấp chiến lược, Việt Nam hóa chiến tranh, tìm và diệt, bình định. Ngýời Pháp đã thử tất cả những thứ này, nhưng không biết tại sao chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể làm lại và thành công. Chúng đều bị thất bại.

Nhân dân Mỹ không được thông báo về những kế hoạch và chính sách của chính quyền Mỹ. Mà ngược lại, Lyndon Johnson đã ra tranh cử như một ứng cử viên ủng hộ hòa bình vào năm 1964, ông ta nói rằng, "Tôi sẽ không gửi những đứa con trai Mỹ sang đó để làm cái việc đánh nhau cho ngýời Á Châu". Người dân Mỹ được bảo rằng Việt Nam là hai nước (bỏ qua khoảng 2000 năm lịch sử) và rằng miền Bắc xâm lược miền Nam.

Và không có dữ kiện đýợc công khai nào có thể trả lời đýợc câu hỏi tại sao một thanh niên Mỹ 19 tuổi lại phải chiến đấu với du kích ở miền Nam Việt Nam. Lãnh đạo ở Sài Gòn được nhắc đến như những hình tượng Jefferson và Lincoln của Việt Nam, trên thực tế, chúng tôi thấy họ là những kẻ buôn bán ma túy, làm giàu nhờ chợ đen và cai quản những ngục tù tra tấn.

Không biết tại sao để cứu Việt Nam, chúng ta phải hủy diệt nó. Thương vong cho dân thường tăng từ 100.000 vào 1965 lên 300.000 vào 1968, chỉ bởi bom và pháo. Thêm vào đó, hàng triệu gallon (1gallon = 4 lít) thuốc khai quang được rải trên 6 triệu mẫu Anh đất. Chúng ta bom bệnh viện để cứu trẻ sơ sinh, chúng ta rải chất da cam và tiêu hủy đất đai để cứu cây trồng, chúng ta đốt thôn ấp để cứu làng mạc và biến Việt Nam thành một nhà chứa khổng lồ với mục đích cứu Việt Nam khỏi Cộng Sản.

Là lính ở Việt Nam chúng tôi thường thấy được thực tế phũ phàng và có thể so sánh với "sự thật" mà người Mỹ được chính quyền cho biết. Chúng tôi thấy tướng tá thối nát ở Sài Gòn làm tiền tay này sang tay kia trong khi quân đội không chịu chiến đấu. Chúng tôi nhìn thấy sự căm ghét trong ánh mắt của dân làng địa phương, họ không bao giờ chào đón chúng tôi như "những người giải phóng", tặng chúng tôi những bó hoa như chúng ta thấy trong những cuốn phim truyện về Thế Chiến II. Những người Việt Nam duy nhất muốn chúng ta ở đó là những người muốn đô-la để trao đổi với ma túy, rượu, hay đàn bà, hoặc cả ba thứ cùng lúc. Chúng tôi cũng đã thấy kẻ thù của chúng tôi chiến đấu và phải ngưỡng mộ cả sự dũng cảm và ngoan cường của họ chống lại xe tăng Mỹ, máy bay, trực thăng bằng súng trường và lựu đạn. Chúng ta cho rằng chúng ta quí trọng mạng người trong khi kẻ thù của chúng ta thì không. Nhưng chúng ta trả chủ của những đồn điền cao su, hãng Michelin, 600 đô-la cho một cây cao su bị hư hại, trong khi mạng của một đứa trẻ Việt Nam được bồi thường không quá 120 đô-la.

Nước Mỹ đã thử mọi thứ để có thể chiến thắng. Chúng ta đã thả hơn gấp ba lần lượng bom được thả bởi cả hai phía trong Thế Chiến II. Chúng ta tiến hành "Chiến Dịch Phượng Hoàng" mà CIA và chính quyền Sài Gòn đã giết khoảng 40.000 người tình nghi là Việt Cộng. Chúng ta đã khai quang 10% diện tích đất, phần lớn là lâu dài. Chúng ta bom, đút tiền cho tham nhũng, bắn, giết, và đốt trong hõn 10 năm với chi phí là 170 tỉ đô-la (tổn phí trong tương lai sẽ tiếp tục tăng). Mặc dù đã làm như vậy, chúng ta vẫn thua.

Nixon đã rút lui không phải vì nước Mỹ đang thắng mà là vì người Việt Nam đang được. Một vài ông tướng ngày nay nói rằng chúng ta thua cuộc chiến nhưng chưa từng thua một trận đánh -- nhưng chúng ta "thắng" cái gì ở Khe Sanh hay ở Tam Giác Sắt, hay ở Lào, Cam-pu-chia ngoài những cái lỗ được bấm trên chiếc thẻ thăng chức của vài sĩ quan?

Sự thật đõn giản là cả người dân Mỹ và lính Mỹ chiến đấu ở Việt Nam nghĩ rằng những mục tiêu -- thực hay tưởng tượng -- đều không đáng giá cho số thiệt hại về nhân mạng và tiền bạc bị tiêu tốn. Cuộc chiến đã thất bại trên chiến trường Việt Nam và trong tim óc của người dân Mỹ.Trong thời gian chiến tranh, VVAW đã dẫn dắt hàng chục ngàn cựu binh chiến tranh Việt Nam biểu tình chống lại cuộc chiến đó. Không có một nhóm cựu binh với tầm cỡ tương tự nào từng lên tiếng thách thức VVAW hoặc mục tiêu của chúng tôi. Khi VVAW đem 1500 cựu binh đến biểu tình cuộc tái ứng cử của Nixon, đảng Cộng Hòa chỉ có thể đem ra được 6 cựu binh ủng hộ Nixon. Cựu binh Việt Nam đã chứng kiến trực tiếp cuộc chiến đó, và họ đã chống lại nó.

Việt Nam không chỉ là một sai lầm. Bất kỳ sự can thiệp nào của nước Mỹ vào một nơi nào trên trái đất sẽ cũng là một sai lầm khi người lính Mỹ tin vào những lời nói láo của chính quyền. Việt Nam không phải là một "mục tiêu cao thượng", trừ những người đã đấu tranh để đem anh em của họ về sau khi họ đã phạm một lỗi lầm là tham gia vào cuộc chiến đó. Về những cuộc xâm lược nước ngoài, hãy nghe lời của chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến Smedley Butler, một người đã từng được nhận Huy Chương Danh Dự (huy chương cao quí nhất dành cho một quân nhân Mỹ):

"Chiến tranh được chỉ đạo để mang lại lợi ích cho một số rất ít người với sự trả giả của số đông quần chúng. Nhờ chiến tranh, một số ít người đã tìm được những mối lợi khổng lồ... nhưng có bao nhiêu triệu phú đã từng vác súng trường ra trận?

Trong rất nhiều năm làm một người lính, tôi đã có nghi ngờ rằng chiến tranh là một mánh lới làm tiền. Cho đến khi về hưu tôi mới hoàn toàn nhận ra điều đó."

Nhắc về vai trò của ông ta trong can thiệp ở Trung Mỹ, Butler nói: "Tôi không có gì khác hơn là một tên lưu manh làm việc cho Wall Street.

-------------------------------------

History of the U.S. War in Vietnam

By Barry Romo, Pete Zastrow & Joe Miller

(revised & updated, 2002)

Link nguồn

Nguyên Văn:

More than any U.S. war since the Civil War, Vietnam divided America and made us reevaluate our society. By any standard, the American effort in Southeast Asia was a major conflict. Money, bombs and men were fed into a meat grinder whose purpose seemed to change at every Presidential press conference. Questions about the history and lessons of the war in Vietnam continue to be raised again and again in the face of current events. The events of 9-11 brought the violence that is part of the daily life of so many of the world's peoples into the lives of Americans in a way that has never been paralleled. A "War on Terrorism" has been declared that has no end in sight. U.S. military personnel have been put at risk in not only Afghanistan, but in increased presence in the Philippines and Colombia. Popular culture offers Mel Gibson's portrayal of Vietnam back when the issues were simpler in We Were Soldiers. Blackhawk Down shows the value of U.S. combat deaths regardless of the settings and the goals. We feel that it is important to remember the lessons of the U.S. War in Vietnam as we knew and lived it.

U.S. involvement in Vietnam did not begin in the 1960's or even the 1940's, but in 1845. That's right -- 1845. In that year the people of Da Nang arrested a French missionary bishop for breaking local laws. The U.S. commander of "Old Ironsides" (the U.S.S. Constitution) landed U.S. Navy and Marines in support of French efforts to reclaim their missionary. Mad Jack Percival, the ship's captain, fired into the city of Da Nang, killing 3 dozen Vietnamese, wounding more, and taking the local mandarins hostage. He then demanded that the Catholic Bishop be freed in exchange for his hostages. The Vietnamese were unimpressed. They refused his demand and waited. "Mad Jack" got tired of waiting, released his hostages, and sailed away leaving the Bishop behind. One hundred and thirty years later, Americans would again become tired of their involvement and leave Vietnam. Unfortunately we would leave behind far more than 3 dozen dead.

U.S. involvement in Vietnam during World War II saw the Vietnamese as our allies. A group of OSS agents (later to become the CIA) made contact with anti-Japanese guerrillas in Southeast Asia. The French who had controlled the area were the "Vichy" French who, with their Nazi leanings, supported the Japanese. Of the different Vietnamese nationalists, only the Viet Minh under Ho Chi Minh led the national network of underground organizations and guerrillas fighting.

Ho Chi Minh met with the U.S. operative, Major Patti, and they agreed on joint anti-Japanese actions. The U.S. dropped supplies behind the lines to Ho Chi Minh and the Viet Minh helped Americans downed behind Japanese lines. The first American advisors helped train, equip and arm the Viet Minh. In 1945, the Democratic Republic of Vietnam was formed with Ho Chi Minh as the first President. American planes flew over Hanoi in celebration of the founding. The Vietnamese Declaration of Independence echoed that of the U.S.: "All men are created equal. They are endowed by their creator with certain inalienable rights, among these are life, liberty and the pursuit of happiness...This immortal statement is extracted from the Declaration of Independence of the United States of America in 1776. Understood in the broader sense this means: All people on earth are born equal. Every person has the right to live, to be happy, and free."

Ho Chi Minh asked the Americans to honor their commitment to independence, citing the Atlantic Charter and the U.N. Charter on self-determination. However, by the end of the war, the U.S. government had begun to redirect its foreign policy from the wartime goal of the liberation of all occupied countries and colonies to the postwar anti-communist crusade, which became the Cold War. In France, where communists had led the resistance to the Nazi occupation, American policy supported General Charles de Gaulle and his anti-communist "Free French." De Gaulle aimed to restore the glory of France, which meant the return of all former French colonies. U.S. relations with the Vietnamese turned sour. President Truman refused to answer letters or cables from Ho. Instead, the U.S. began to ship military aid to the French forces in Indochina.

The French return to their former colony was not easy. First, they had to arm and use former Japanese POWs to establish a foothold; not a move fated to win much popular support. They were able to retake towns but not the countryside. In 1950, General Giap launched a general offensive against the French, which, though it was premature, resulted in 6,000 French killed or captured. In 1954, the French were decisively defeated at Dien Bien Phu. Although the French government described Dien Bien Phu as a "victory," it was more truly portrayed by commentator Bernard Fall as France's "greatest colonial defeat since Montcalm died at Quebec."

According to international agreement, Vietnam was to be temporarily divided into north and south, with free elections to take place nationwide in 1956. Even before the French were out, the U.S. was moving in. Prior to Dien Bien Phu, the U.S. set up MAAG (Military Assistance and Advisory Group) consisting of 350 U.S. personnel operating in Saigon in support of the French. Between 1950 and 1954, the U.S. contributed over $3 billion to their French allies in the fight for Vietnam. By 1954, the U.S. contributions were providing 80% of the cost of the war. MAAG began to train a "nationalistic" Vietnamese force of a quarter of a million men. This force was largely made up of Vietnamese who had fought for the French.

Former Emperor Bao Dai had appointed Ngo Dinh Diem, a Vietnamese Catholic who had lived in the U.S. and Europe, Premier of South Vietnam. Though Vietnam was 95% Buddhist, the Catholic Diem was soon recognized as the future leader of Vietnam by the CIA and other U.S. interests. In 1956 the U.S. refused to go along with the promised nation-wide elections because, in the words of President Eisenhower, "Possibly 80 per cent of the population would have voted for the Communist Ho Chi Minh as their leader rather than Chief of State Bao Dai."

U.S. involvement continued and so did U.S. money and men. American presence rose to 500 under Eisenhower and grew to 15,000 under Kennedy. But Diem continued to be in trouble: former Viet Minh cadres helped to support a number of groups to oppose Diem and the French successor in Vietnam -- the U.S. The similarity between the French and the U.S. forces in Vietnam was, from the Vietnamese point of view, more than that both were foreign oppressors. Even our uniforms were similar, right down to the green berets. In fact, U.S. troops were known as "Frenchmen with money."

Buddhist unrest grew in the cities. In the countryside the National Liberation Front (the NLF, called the Viet Cong or VC by Diem and the U.S.) were killing Diem's cronies and consolidating power. The U.S. decided to back a coup of Vietnamese generals to topple Diem. Not only did the generals get rid of Diem and assassinate him; they also went on to overthrow one another on a regular basis.

The situation was desperate. More and more American troops were put in to replace Saigon troops who could not, or would not, get involved in the fighting. The Saigon government had no real base other than the aid it got from the U.S., and we got exactly what we paid for: pimps, prostitutes, cowards and gangsters, masquerading as a government and a military.

This was bad enough. But it was coupled with the incredible arrogance on the part of the U.S. government and military leaders. They could not believe that Asians could stand up to the might and technology of the U.S. As the war progressed, we went from one stage to another without any real change in the situation. Strategic hamlets, Vietnamization, search and destroy, pacification: the French had tried all these programs, but somehow the U.S. thought we could make them work. They did not.

The American people were not being told of the plans or the policies of the U.S. government. To the contrary: Lyndon Johnson ran as a peace candidate in 1964, saying, "I won't send American boys to do the fighting for Asian troops." Americans were told that Vietnam was two countries (omitting some 2,000 years of history) and that the North was invading the South. And none of the information given out did anything to answer the questions of the 19-year-old American fighting the guerrillas in South Vietnam. While Saigon's leaders were talked about as the Vietnamese versions of Jefferson and Lincoln, we saw the drug pushing, the black marketeering and the torture cells.

Somehow in order to save Vietnam we had to destroy it. Civilian casualties from U.S. actions ran from 100,000 in 1965 up to 300,000 in 1968, just from bombing and artillery. In addition, millions upon millions of gallons of herbicides were sprayed over 6 million acres of land. We bombed hospitals to save orphans, we sprayed Agent Orange and destroyed the land in order to save crops, and we burned hamlets to save villages and turned Vietnam into a huge whorehouse in order to save Vietnam from Communism.

As GIs in Vietnam we saw the often-stark realities of Vietnam and could compare them to the "truth" the American people were being told. We saw the corrupt Saigon generals making money hand over fist while their armies would not fight. We saw the hate in the eyes of the local villagers who never welcomed us as "liberators" bringing us bouquets of flowers as we had seen in World War II movies. The only Vietnamese who seemed to want us there wanted greenbacks in return for drugs, booze or women, or all three. We also saw the enemy fight and had to admire both his bravery and tenacity in taking on U.S. tanks, planes and helicopters with grenades and rifles. We supposedly valued human life while our enemy did not. Yet we paid the owners of the Michelin plantations $600 for each rubber tree we damaged, while the family of a slain Vietnamese child got no more than $120 in payment for a life.

We took and defended "strategic" hills, winning what the press called "victories." While the enemy body count (noted for the thin line between military and civilian dead) enhanced ranking officers' careers, it was the casualties among our friends that were felt first by us. And then we'd give up the hill and have to fight for it again later on. The war was not something to be won or lost by the grunt, but 365 days to be survived.

The U.S. tried everything to win. We dropped more than three times the total tonnage of bombs dropped by both sides in World War II. We conducted "Operation Phoenix" during which the CIA and the Saigon government killed up to 40,000 suspected members of the Viet Cong. We defoliated 10% of the land, much of it permanently. We bombed, bribed, shot, killed and burned for more than 10 years at a cost of $170 billion (and a future cost which is continuing to rise). Despite all this, we still lost.

Nixon did not pull out because the U.S. was winning but because the Vietnamese were. Some generals today are saying we lost the war but never lost a battle -- but what the hell did we "win" at Khe Sanh or in the Iron Triangle or in Laos or in Cambodia besides having some hole punched in some officer's promotion card?
The simple fact is that neither the American people nor the American GIs fighting in Vietnam thought that the goals -- real or imagined -- were worth the lives and the money being squandered. The war was lost on the battlefields of Vietnam and in the hearts and minds of the American people.

During the war, VVAW led tens of thousands of Vietnam vets in demonstrations against that war. No comparable group of Vietnam vets ever rose to challenge VVAW or our goals. When VVAW brought 1500 Vietnam vets to protest Nixon's renomination, the Republican Party could only come up with 6 vets to support the war -- and some of these did not support Nixon. Vietnam vets knew firsthand about the real war, and they opposed it.

When this was first written, the Reagan administration had begun again to put U.S. service lives on the line to further foreign policy goals. The invasion of Grenada, the bombing of Libya, the abortive occupation of Beirut, Persian Gulf patrols -- all reflected a new U.S. readiness to intervene overseas. The parallels with Vietnam were particularly striking in Central America were the U.S. supported repressive regimes against popular insurgencies.

The first Bush administration followed suit with the invasion of Panama, supposedly to capture a drug dealer (who had long been on the CIA's payroll). Thousands of Panamanians were killed and many more displaced in this "just cause." This "success" emboldened Bush to take us to war in the Persian Gulf in 1990-91, merely to protect our sources of oil and to reestablish the royal family in Kuwait. Hundreds of thousands died in this one-sided conflict, including nearly three hundred U.S. troops (many the result of accidents and "friendly fire"). The Iraqi people continue to suffer under a horrible embargo that was established at the end of that war. Under Clinton came the use of U.S. troops in Somalia and the continued advancement of a "war on drugs" against the people of Columbia. With the horrible events of 9-11 misused as justification for any kind of violent or repressive response, U.S. military personnel are once again being used to fulfill political aims.

Vietnam was not just a mistake. Any U.S. venture in another part of the globe will also be a mistake for the GIs who buy the government's lies. Vietnam was not a "noble cause," except for those who fought to bring our brothers home after they made the mistake of going. As for foreign aggression, hear the words of Medal of Honor winner and Marine commandant Smedley Butler:

"War is conducted for the benefit of the very few at the expense of the masses. Out of war a few people make huge fortunes...How many millionaires ever shoulder a rifle?

"For a great many years as a soldier, I had the suspicion that war was a racket. Not until I retired did I fully realize it.

"I was," said Butler of his own role in Central American intervention, "nothing more than a gangster for Wall Street."

No comments:

Post a Comment