Tuesday, April 22, 2008

Trần Chung Ngọc - 30/4: Nhìn Lại Cuộc Chiến Việt Nam - PI

[Trích Dịch Một Bài Của Giáo Sư Stephen Vlastos: Đại Học Iowa]

Vài Lời Nói Đầu: Sau Thế Chiến thứ hai, Mỹ là cường quốc vô địch trên thế giới, về quân sự cũng như về kinh tế. Nhưng thật khó mà có thể tưởng tượng được là Mỹ lại không thể thắng được trong cuộc chiến ở Việt Nam, nếu không muốn nói là chiến bại, như đa số giới học giả, trí thức Mỹ đã chính thức công nhận [We lost the war]. Tuy vậy, một số người Mỹ vẫn không thể chấp nhận cuộc chiến bại ở Việt Nam, và từ vài thập niên nay, có một số thuộc trường phái xét lại (revisionists) vẫn cố gắng viết lại lịch sử để biện minh cho cuộc can thiệp và xâm lăng của Mỹ vào Việt Nam là chính đáng và đáng lẽ ra có thể thắng được. Đối với một số người Việt quốc gia di cư thì sự diễn giải kết cục của cuộc chiến có khác. Hoặc là Mỹ không muốn thắng, hoặc là Mỹ đã phản bội họ cho nên làm cho họ “mất nước” [sic]. Họ gọi ngày nước nhà thống nhất, không còn bóng quân đội ngoại quốc trên đất nước là ngày “quốc hận” [sic], không hề bận tâm là “quốc” nào của họ và họ thực sự có đáng là công dân của “quốc” đó hay không, hay chỉ là những con chiên ghẻ bám víu vào một thế lực ngoại quốc, một tôn giáo ngoại lai.. Thực ra thì dùng cụm từ “phản bội” không được đúng, vì VNCH chẳng qua chỉ là một chế độ tay sai [client regime] của Mỹ, cho nên khi thấy hết còn sài được thì Mỹ bỏ, vì chính quyền lợi của Mỹ. Đây là một sự thực rất đau lòng nhưng không mấy người chịu chấp nhận.

Đại cương thì những người thuộc trường phái xét lại tập trung những luận cứ của mình trên sự diễn giải những sự kiện lịch sử theo thiên kiến và tâm cảnh trịch thượng của một số người Mỹ tự cho là Mỹ có quyền làm bất cứ điều gì Mỹ muốn, và làm gì cũng đúng. Do đó lý luận của họ thường là một chiều, chỉ cần biết đến lập trường của Mỹ mà không cần biết đến “kẻ thù” của mình là ai và nghĩ như thế nào. Trong trường phái này chúng ta thấy những tác phẩm đại loại như :

Our Vietnam Nightmare của Marguerite Higgins,
Vietnam: The Necessary War của Michael Lind,
America in Vietnam của Guenter Lewy;
No More Vietnam của Richard Nixon;
On Strategy của Harry Summer, và gần đây, cuốn
Triumph Forsaken của Mark Moyar.

Những cuốn sách viết về cuộc chiến Mỹ-Việt thuộc loại này thật sự chỉ là một thiểu số thuộc phe bảo thủ cực hữu, và lẽ dĩ nhiên sẽ được một thiểu thiểu số người Việt di cư thuộc loại “phi dân tộc” tán thưởng.

Tuyệt đại đa số những tác phẩm viết nghiêm chỉnh về cuộc chiến ở Việt Nam đều viết bởi các tác giả có uy tín trong xã hội như học giả, giáo sư đại học, bộ trưởng, cựu tướng lãnh, chính trị gia v..v.., những người đặt sự lương thiện trí thức lên hàng đầu. Kết luận của trường phái được gọi là “chính thống” (orthodox) này là: cuộc can thiệp (intervention) hay xâm lăng (invasion) của Mỹ vào Việt Nam là bất chính và là một sự sai lầm lớn lao.

Sự khác biệt giữa hai trường phái “xét lại” và “chính thống” là, trường phái “xét lại” thường viết với tâm cảnh đối nghịch “quốc - cộng” trong cuộc chiến tranh lạnh, hay đối nghịch “tư bản - cộng sản” của mấy chục năm về trước, theo tư duy của những chính khách Mỹ, trong khi trường phái “chính thống” thường viết dựa trên những sự kiện lịch sử và phân tích sự việc như chúng là như vậy.

Có thể nói, những bài tôi viết về cuộc chiến ở Việt Nam là do một sự thay đổi tư duy, bắt nguồn từ những hiểu biết mới về cuộc chiến ở Việt Nam qua sự nghiên cứu một số lớn tài liệu của giới trí thức Tây phương, và với tinh thần khoa học, tôn trọng sự thật lịch sử trong tâm cảnh phi quốc, phi cộng.

Trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991, John Carlos Rowe and Rick Berg: Editors), Noam Chomsky viết trong bài “Visions of Righteousness”, trang 28:

Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% quảng đại quần chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm”.…

(As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually no dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70% of the general population still regarded the war as “fundamentally wrong and immoral”, not merely “a mistake”…)

Và Daniel Ellsberg viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:

“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.

(In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.)

Do đó, tất cả những lý lẽ dùng để biện minh cho cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đều vô giá trị. Giáo sư Mortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208:

“Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này vô giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ... Và đó cũng đủ là lý do.

Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý do nào hợp lý.”

(During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless. The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough...

More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons. None of them were valid.)

Mỹ tự cho rằng Mỹ là khuôn mẫu “thiện” của cả thế giới, vì Mỹ tin tưởng ở Thiên Chúa (In God We Trust), vì Mỹ là “quốc gia của Thiên Chúa” (God’s Country), người dân Mỹ là “dân của Thiên Chúa” (God’s people), Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, cho nên, theo giáo lý rao giảng bởi Ki Tô Giáo: kẻ nào không tin Thiên Chúa của Ki-tô Giáo là kẻ ác, không thể có đạo đức v..v... Tuy nhiên, rất ít người biết rằng, vì Thiên Chúa trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [The Bible] có một hồ sơ nhân quyền kinh khủng nhất đối với nhân loại, cho nên Mỹ, cũng như Giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong lịch sử, cũng có một hồ sơ nhân quyền khủng khiếp nhất thế giới. Và như là một nghịch lý, nước Mỹ phần lớn là theo Ki Tô Giáo, thấm nhuần đạo đức của Ki Tô Giáo, nhưng về những tội ác trong xã hội thì nước Mỹ lại chiếm giải quán quân trên thế giới, theo chính những thống kê của Mỹ, với tỷ lệ các tội phạm trên tổng số dân rất cao so với các nước phi Ki-tô trên thế giới,. Với quan niệm tự tôn trắng đen, “ta” thiện chống “nó” ác, “chúng ta” và “chúng nó”, và tin vào ưu thế của vũ khí, Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam bất kể lý do, bất kể đạo đức, bất kể công pháp quốc tế, đưa đến kết quả là gánh lấy sự thất bại đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, sau khi tàn phá đất nước Việt Nam một cách man rợ, vô nhân tính. Chúng ta còn nhớ, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant, sau khi quan sát tình hình ở Việt Nam, đã tuyên bố: Cuộc chiến chênh lệch giữa kỹ thuật Hoa Kỳ và một nước nhỏ kém mở mang (VN) là một trong những cuộc chiến "man rợ nhất" của lịch sử. (The Secretary of the United Nations, U Thant, was driven by his observations to call this mismatch between the United States and a small underdeveloped nation one of the "most barbarous" wars in history)

Và Giáo sư Noam Chomsky cũng đã châm biếm, cho rằng Mỹ đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) vì đã thành công để lại cho Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh tế… Nhưng kết quả cuộc chiến ở Việt Nam đã tạo nên một “Hội Chứng Việt Nam” (Vietnam Syndrome) trên toàn nước Mỹ, và giới bảo thủ cực hữu đã cố gắng dùng phương tiện truyền thông để viết lại lịch sử, hòng lấy lại uy tín của Mỹ trên chính trường thế giới và trong dân chúng Mỹ. Họ đã thành công phần nào đối với người dân Mỹ, vì người dân thường Mỹ rất ít biết về lịch sử nước Mỹ, khoan nói đến lịch sử thế giới, cho nên vẫn tin rằng vì Mỹ là nước của Thượng đế [God’s country] và vì vậy mọi việc Mỹ làm đều tốt, không thể nào khác được. Tổng Thống Bush cha, sau cuộc chiến thắng ở vùng Vịnh, tưởng rằng đã lấy lại uy tín cho nước Mỹ cho nên tuyên bố là đã “đá” (kick) Hội Chứng Việt Nam ra khỏi sự ám ảnh của người Mỹ về cuộc chiến bại ở Việt Nam. Nhưng đó chỉ là một ý tưởng chủ quan hoang tưởng, vì Hội Chứng Việt Nam chưa hề ra khỏi gánh nặng trong đầu óc của người dân Mỹ, ít ra là trong giới hiểu biết, nếu chúng ta đọc những bài viết về Hội Chứng Việt Nam của các tác giả như Richard Falk, George C. Herring, Carol Wilder, Earl Ofari Hutchinson, David Greenberg, James Nachtwey, Christopher Hitchens, Norman Solomon, Matthew Yglesias v..v…

Hiển nhiên nước Mỹ không phải chỉ có những người thuộc phe bảo thủ xét lại, mà còn vô số những bậc trí thức, học giả, có thể nói là biểu tượng lương tri của nước Mỹ. Trong số này, nổi bật nhất phải nói là Noam Chomsky. Trong cuốn “The Vietnam War and American Culture”, Giáo sư Noam Chomsky đã viết một bài dài về những cách nhìn của một số lãnh đạo Mỹ tự cho là công chính, thánh thiện (Visions of Righteousness). Sau đây là vài đoạn điển hình của Giáo sư Chomsky, trước hết là về chính sách diệt chủng của Mỹ ở Philippines, được các hệ phái Ki Tô Giáo ở Mỹ ủng hộ, trang 25-25:

Cuộc chinh phục Phi Luật Tân của Mỹ, chỉ huy bởi những người đã học từ những cuộc chiến với những thổ dân (da đỏ) Mỹ, là một trong những trang man rợ nhất của lịch sử hiện đại. Chỉ trên đảo Luzon, khoảng 600000 thổ dân Phi chết từ cuộc chiến hay bệnh tật gây ra từ cuộc chiến. Tướng Jacob Smith, người ra lệnh “giết và thiêu sống” (các người càng giết và thiêu sống nhiều thì càng làm cho ta vui lòng) để biến đảo Samar thành một “cảnh hoang vu ảm đạm”, về hưu mà không bị một sự trừng phạt nào của Tổng Thống Roosevelt… Giám đốc các cơ quan truyền giáo của hệ phái Ki Tô Trưởng Lão ca tụng cuộc chinh phục là “một bước vĩ đại trong công cuộc văn minh hóa và phúc âm hóa thế giới”, trong khi một thừa sai khác giải thích là “cách tra tấn bằng nước” thực sự không phải là “tra tấn”, vì “nạn nhân có tự quyền để chấm dứt sự tra tấn” bằng cách tiết lộ những điều hắn biết “trước khi cuộc tra tấn đi đến độ làm tổn thương nặng nề đến hắn”, và một giám mục lãnh đạo Tân Anh giáo ca tụng chiến thuật của tướng Smith là cần thiết để “làm sạch những thổ dân”, bọn người “man rợ và xảo trá”, “những ảnh hưởng ác ôn” của một dạng Ki Tô Giáo suy đồi [nghĩa là Công Giáo]. Báo chí cũng hùa theo cùng những tình cảm như trên. Tờ New York Criterion giải thích, “Dù muốn hay không, chúng ta phải tiếp tục tàn sát những thổ dân Phi theo mốt của người Anh, và tiếp nhận mọi vinh quang đục ngầu bởi sự tàn sát tập thể cho đến khi chúng học được bài học là phải tôn trọng quân đội của chúng ta. Nhiệm vụ khó khăn hơn tiếp theo là làm cho chúng phải tôn trọng những ý định của chúng ta.” Những tư tưởng tương tự cũng được phát biểu khi chúng ta đang tàn sát những người dân Nam Việt Nam, và chúng ta lại nghe lại ngày nay (1991), hầu như cùng những lời lẽ đó, đối với những thành tích của chúng ta ở Trung Mỹ. Nói đến “mốt của người Anh” thì mọi sinh viên học về lịch sử Hoa Kỳ đều hiểu, và những người còn nhớ lại những người Mỹ đến đây định cư, kể cả những người Thanh Giáo thánh thiện và George Washington, đã dạy thổ dân là chiến tranh theo mốt của người Anh là một hệ thống tiêu diệt, nhắm thẳng vào phụ nữ và trẻ con.

(The American conquest of the Philippines, led by men who had learned their craft in the Indian wars, ranks among the most barbaric episodes of modern history. In the Island of Luzon alone, some 600,000 natives perished from the war or diseases caused by it. General Jacob Smith, who gave orders to turn the island of Samar into a “Howling wilderness”, to “kill and burn” (“the more you kill and burn the better you will please me”) was retired with no punishment by President Roosevelt… The director of all Presbyterian missions hailed the conquest as “a great step toward the civilization and evangelization of the world”, while another missionary explained that the “water cure” was not really ‘torture” because “the victim has it in his own power to stop the process” by divulging that he knows “before the operation has gone far enough to seriously hurt him”, and a leading Episcopal Bishop lauded general Smith’s tactics as necessary “to purge the natives”, who were “treacherous and barbarous”, of the “evil effects” of “a degenerate form of Christianity”. The press chimed in with similar sentiments. “Whether we like it or not”, the New York Criterion explained, “we must go on slaughtering the natives in English fashion, and taking what muddy glory lies in the wholesale killing until they have learned to respect our arms. The more difficult task of getting them to respect our intentions will follow.” Similar thoughts were expressed as we were slaughtering the natives in South Vietnam, and we hear them again today, often in almost these words, with regard to our current exploits in Central America. The reference to the “English fashion” will be understood by any student of American history, by anyone who recalls how the settlers, including the saintly Puritans and George Washington, taught the natives that war in the English fashion is a system of extermination, directly specifically against women and children.)

Và sau đây là một đoạn về Việt Nam, trang 29:

Mỹ đã tham gia sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chinh phục thuộc địa trước của Pháp [nên nhắc lại là Ca-Tô Giáo Rô-ma ở Việt Nam đã giữ một vai trò then chốt trong cuộc chinh phục Việt Nam của Pháp trước đó], biết rõ rằng kẻ thù là một phong trào quốc gia của Việt Nam. Số người chết vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ dấn thân ngay lập tức vào việc phá hoại Hiệp Định Geneva, dựng lên một chế độ khủng bố ở miền Nam, một chế độ, cho đến năm 1961, đã giết tới 70000 “Việt cộng”, làm nổi lên cuộc kháng chiến mà từ năm 1959 được sự ủng hộ của nửa nước miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Geneva năm 1954 mà Mỹ đã phá ngầm. Trong năm 1961-62, Tổng Thống Kennedy đã mở cuộc tấn công trực tiếp vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc bỏ bom đại quy mô và thuốc khai quang như là một phần của kế hoạch lùa cả triệu người dân vào những trại tập trung để họ có thể được “bảo vệ” bởi lính gác và giây kẽm gai trước những du kích quân mà Mỹ thú nhận là người dân sẵn sàng ủng hộ. Mỹ cho rằng Mỹ được mời vào Nam Việt Nam, nhưng như tờ London Economist đã nhận thức chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng, trừ khi được mời vào bởi một chính phủ hợp pháp”. Mỹ chưa bao giờ coi những chế độ tay sai mà Mỹ dựng lên là hợp pháp, và trong thực tế Mỹ thường thay thế những chính phủ đó khi những chính phủ đó không tỏ ra hồ hởi đủ trước sự tấn công của Mỹ hay toan tính tìm một giải pháp trung lập mà mọi phía đều ủng hộ và bị coi như là nguy hại đối với những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Việt Nam.

Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương.

(The United States was deeply committed to the French effort to reconquer their former colony, recognizing throughout that the enemy was the nationalist movement of Vietnam. The death toll was about a half-million. When France withdrew, the United States dedicated itself at once to subserting the 1954 Geneva settlement, intalling in the South a terrorist regime that had killed perhaps 70,000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the Northern half of the country temporarily divided by the 1954 settlement that the United States had undermined. In 1961-1962, President Kennedy launched a direct attack against rural South Vietnam with large scale bombing and defoliation as part of a program designed to drive million of people to camps where they would be “protected” by armed guards and barbed wired from the guerrillas whom, the United States conceded, they were willing supporting. The United States maintained that it was invited in, but as the London Economist accurately observed, “an invader is an invader unless invited in by a government with a claim to legitimacy.” The United States never regarded the clients it installed as having any such claim, and in fact it regularly replaced them when they failed to exhibit sufficient enthusiasm for the American attack or sought to implement the neutralist settlement that was advocated on all sides and was considered the prime danger by the agressors, since it would undermine the basis for their war against South Vietnam. In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.)

Gần đến ngày 30 tháng Tư, chúng ta lại sắp sửa nghe những bài ca quen thuộc trên một đĩa hát đã cùn về “CS xâm chiếm niền Nam” (sic) hay “ngày mất nước” (sic) hay “tháng Tư đen” [có thể vì đó là tháng mà thế lực đen quốc tế (The Black International = Ca-Tô Giáo Rô-ma, từ của Linh mục Joseph McCabe) đã tháo chạy], hay “ngày quốc hận” [sic] v.. v… phản ánh một sự hiểu biết rất ngu ngơ và đần độn về cuộc chiến ở Việt Nam.

Trong khi tôi viết bài này thì trang nhà sachhiem.net đưa lên mục "Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình" trong mục "Lịch Sử" một số khúc phim tài liệu truyền hình như Declassified: Viet Cong" của Mỹ và “Điện Biên Phủ” của Việt Nam, và rất nhiều tài liệu khác về cuộc chiến ở Việt Nam. Chỉ cần xem một số trong những tài liệu này chúng ta cũng có thể thấy lòng yêu nước, sự hi sinh của người dân Việt, và công lao của Việt Minh trong thời kháng Pháp cũng như của đảng CSVN trong thời chống Mỹ lớn lao như thế nào để đưa nước nhà đến thống nhất và độc lập.

No comments:

Post a Comment